Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bước Chuyển Từ Triết Lý Niệm Phật Đến Tín Ngưỡng Niệm Phật

18 Tháng Ba 201614:44(Xem: 12593)
Bước Chuyển Từ Triết Lý Niệm Phật Đến Tín Ngưỡng Niệm Phật

BƯỚC CHUYỂN TỪ TRIẾT LÝ NIỆM PHẬT
ĐẾN TÍN NGƯỠNG NIỆM PHẬT

Thích Đức Trí

Bước chuyển từ triết lý Niệm Phật đến tín ngưỡng Niệm Phật

 

Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bitrí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phậtphương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.

I-      Khái lược về triết lý kinh điển của pháp môn Niệm Phật

Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa NghiêmKinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phậtthật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau phổ biến phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà.

Khi quay trở về với các kinh điển Nguyên thủy để đối chiếu thì thấy có những điểm khác nhau giữa pháp niệm Phật trong Phật giáo Nguyên ThủyTịnh Độ tông. Đó là sự thực, lý doPhật giáo Nguyên thủy lấy Thiền Tứ Niệm Xứ làm pháp môn chủ đạo cho sự chứng đắcgiác ngộ. Niệm Phật theo hệ kinh Nikaya là pháp quán niệm chứ không phải là xưng niệm danh hiệu như thời kì về sau này của Tịnh Độ tông. Nhưng vấn đề chú ý là Tịnh Độ tông lấy pháp niệm Phật làm pháp môn chủ đạo cho mục đích vãng sanhchứng đắc Niết bàn. Nói niệm Phật vãng sanh là có y cứ từ kinh luận Đại thừa. Nhưng niệm Phật chứng ngộ Niết bàn được đề cập trong kinh điển Nguyên thủyĐại thừa chưa  phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Từ hiện thực đó, niệm Phật là một nghệ thuật điều phục tâm, phương pháp tuyệt diệu đi vào thiền địnhchứng đắc tuệ giác bị chôn vùi đằng sau lớp rào cản của tín ngưỡng làm cho mọi người dễ phát sinh nhiều quan niệm sai biệt về pháp tu này. Tín ngưỡng đây là từ ngữ tạm dùng vì chưa thể hiện trọn vẹn ý nghĩa niệm Phật từ phương diện triết lý. Tín ngưỡng niệm Phật là mặt nổi với niềm tin Phật ở cõi Tây Phương được phổ biến trong nhân gian, nhưng trong đó tiềm ẩn tư tưởng Phật đà quan và pháp quan của Phật giáo Đại thừa. Niềm tin và triết lý của Pháp niệm Phật đã từng hòa quyện vào nhau trở thành pháp tu với hai phương diện niệm Phật vãng sanhniệm Phật chứng ngộ Niết bànvấn đề mà bài viết này đề cập đến.

A Di Đà, phiên âm từ chữ Phạn Amita, có nghĩa là Vô Lượng; A Di ĐàVô Lượng Thọ (Amitāyus) và Vô Lượng Quang (Amitābha). Tại sao từ A Di Đà chuyển đến ý nghĩa Vô Lượng ThọVô lượng Quang, đó là xuất phát từ nhiều lý do thích đáng. Các nhà dịch thuật đều căn cứ vào ý nghĩa và nội dung kinh văn để nhận thức phẩm đức của Phật A Di Đà. Theo từ điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam giải nghĩa: “A Di Đà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc qua bộ kinh Ban Châu Tam Muội do Chi Lâu Ca Sấm thực hiện năm 179 s.dl., Đại A Di Đà Kinh do Chi Khiêm dịch vào đầu thế kỷ thứ III và Kinh A Di Đà do La Thập dịch vào đầu thế kỷ thứ V”[1]. Điều chúng ta thấy là có nhiều kinh luận Đại thừa xuất hiện giới thiệu Phật A Di Đà.

Theo tinh thần các kinh Đại thừa nói chung thì A Di Đà (Amita) có nghĩa rút gọn tên Vô Lượng ThọVô Lượng Quang. Đặc biệt trong kinh điển Mật giáo, A Di Đà Phật còn có tên gọi là Cam Lồ Đại Minh Vương hay Kim Cương Cam Lồ Thân[2]. Một vài học giả đối chiếu tư tưởng các tôn giáo khác có sự suy luận sai biệt, như có người cho rằng: “A Di Đà là sự phát triển của thần thoại mặt trời trong tư tưởng tôn giáo Iran, hay có thể xuất phát từ tín ngưỡng Vishnu trong thời Veda của Ấn Độ”[3]. Nhưng chúng ta phải hiểu là đó sự suy luận theo tinh thần khảo cứu của các học giả. Đối với các nhà Phật học chắc chắn căn cứ nội dung các kinh điển Đại thừa và kinh Nguyên thủy để phát triển tác dụng giáo lý Tịnh Độ trong quá trình tu tậphoằng pháp.


Ai đã từng đọc kinh văn Nguyên Thủy, đều biết ý nghĩa niệm Phậtphương pháp quán tưởng, quán niệm về mười phẩm hạnh của Đức Phật trong pháp Lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thíniệm Thiên. Có nghĩa Niệm Phật ở đây là tư duy về Phẩm đức Phật chứ không phải là xưng danh hiệu. Khi thuyết pháp cho các đệ tử cư sĩ, Đức Phật dạy như sau: “Các ông sắp vào nơi hoang mạc, sẽ gặp nhiều khủng bố, tâm kinh hoàng dựng đứng cả lông, lúc ấy nên niệm Như Lai sự: ‘Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác… cho đến Phật, Thế Tôn. Niệm như vậy thì mọi khủng bố đều tiêu trừ." [4] Trong Kinh Trung A Hàm đức Phật dạy về tác dụng pháp quán niệm mười phẩm đức của Phật: “Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt.  Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có cũng bị diệt.”[5] Niệm Phật trong thiền môn tổ sư thiền tông Hoằng Nhẫn có chủ trương: “Niệm Phật tịnh tâm[6]” (Niệm Phật để tịnh tâm). Niệm Phật ở đây là phương tiện nhiếp tâmquán tâm. Cho nên thiền sư Thần Tú định nghĩa: “Phù niệm Phật giả, đương tu chánh niệm”[7] (Niệm Phật tức là tu chánh niệm), mà chánh niệm để quán nguồn tâm, thuật từ diễn đạt là “quán sát tâm Nguyên”. Tịnh Độ tại tâm là chủ trương của Thiền tông cũng chỉ là cấp độ hoàn thiện của Pháp môn niệm Phật. Tư tưởng này cũng là quan niệm về Tịnh độ của Phật giáo Việt Nam thời Trần, Thiền Sư Trần Nhân Tông  có bài kệ khai thị như sau: “Tịnh Độ là lòng trong sạch, Chớ còn hỏi đến Tây Phương. Di Đà là tính sáng soi, Mựa phải nhọc tìm Cực lạc”[8]  Một khi đạt đến cấp độ niệm Phật đoạn trừ phiền não, dứt sạch tham ái thì Niết bàn xuất hiệnCực lạc tây phương trong tầm tay đâu còn tìm cầu. Chứng ngộ Niết bànthể nhập được tánh giác thanh tịnh, đầy đủ vô lượng công đức, ý nghĩa ấy được gọi “Duy Tâm Tịnh độ” hay “Tự tánh Di Đà”, đó là cụ thể hóa ý nghĩa “Thực tướng niệm Phật” trong giáo nghĩa Tịnh Độ. Đây là điểm then chốt mà các tông phái thường quan niệm ý nghĩa Thiền và Tịnh hợp nhất

Trên phương diện kinh giáo thì Đức Phật Thích Ca là Phật lịch sử. Có vài học giả bảo rằng Phật A Di Đà là Phật Tôn giáo. Đây là điểm thuộc về nghiên cứu, nhưng chúng ta phải hiểu rằng: Mục đích Phật nói kinh, không phải xây dựng hình ảnh Phật theo ý nghĩa Tôn Giáo. Phật tôn giáo là khái niệm các học giả thiết lập để tìm hiểu về Phật giáo. Kinh văn Đại Thừa nhắc đến Phật A Di Đà là vị Phật quá khứ. Đứng về phương diện Phật Đà quan mà luận, nếu Nguyên thủy Phật giáo chấp niệm quan điểm Thất Phật theo kinh Trường bộ[9], thì đương nhiên chấp nhậnquá khứ Phật, hiện tại Phật và vị lai Phật. A Di Đà hay mười phương chư Phật đều là Phật quá khứ. Phật dạy mọi chúng sanhPhật tánh đều có thể thành Phật. Từ triết lý nhân quả mà luận thì tu theo hạnh Phật sẽ thành Phật, tu theo hạnh Bồ tát sẽ thành Bồ tát. Phật Thích Ca hay Phật Di Đàvô số Phật trên phương diện Pháp thân, trí tánh giác ngộ đều bình đẳng, tu là để khôi phục tánh giác ngộ ấy.

Nhưng các pháp môn căn bản đều thiết lập trên ba môn Giới-Định Tuệ để loại bỏ Tham-Sân- Si. Pháp niệm Phật được hiểu như thế. Chúng sanh khổ đau do tâm tạo, do tâm hằng tư niệm ác pháp điều động thân miệng ý khởi hạnh ác, nay trở về niệm Phật, giúp tâm thanh tịnh. Tất cả các phương pháp Phật dạy đều là phương tiện, không nên dùng kiến giải chủ quan làm chìa khóa phân tích và so sánh nó từ gốc độ chân đế. Nếu lập luận như thế dễ lầm chiếc bè và bờ sông là một, thật đáng tiếc trong phương thức luận!


Vấn đề Tịnh Độ quan, chúng ta suy nghiệm từ kinh tạng Nikaya, qua bài Kinh Đại Thiện Kiến Vương[10], ngôn từ Đức Phật thuật lại cho ngài Anan nghe quốc gia hưng thịnh của vua Thiện Kiến làm Chuyển luân thánh vương trong thời quá khứ, ngôn từ diễn tả môi trường của cảnh giới ấy căn bản có nhiều điểm giống như thế giới Tây phương cực lạc trong kinh A Di Đà. Hơn nữa từ thực tế, Đức Thích Ca trước khi thành Phật cõi Ta BàBồ tát Hộ Minh trú tại cõi trời Đâu suất, Phật Di Lặc tương lai thành Phật cũng đang trú tại cõi trời Đâu suất. Cảnh giới đó chúng ta có thể gọi là Thiên quốc tịnh độ. Đứng về phạm trù tâm mà luận, Phật hay Bồ tát luôn có Tịnh Độ hiện hữu, vì có cái tâm trong sạch thì có cảnh giới trong sạchTịnh Độ. Nếu Phật và Bồ táttâm giải thoát khi thị hiện trong nhân gian này, thì thế giới chúng ta có thể gọi là Phàm thánh đồng cư độ.

Do vậy, người tu niệm Phật xem  Đức Phậtđấng giác ngộ vẹn toàn, bậc giác ngộ giải thoátnăng lực từ bitrí tuệ siêu việt, tin cõi Tịnh Độ trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Đức Phật xuất hiện thế gian không ai bằng Phật được nhấn mạnh trong trong kinh Nguyên thủy như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời. Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời.”[11]Trong Kinh điển Nguyên thủy ghi lại Đức Thích Ca cũng xuất hiện trong đời với nhiều năng lực siêu phàm, công đức thù thắng siêu việt thế gian, người phàm phu không có được. Trong giáo lý Tịnh Độ, các kinh điển Đại thừa đều đề cập Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ chúng sanh phát nguyện vãng sanh là điều sự thực chứ không yếu tố thần thoại của người đời sau. Kinh Nguyên thủy cũng có xác nhận về sự kiện đức Phật hiện hào quang như sau: “A Nan nên biết, ta có hai nhân duyênphóng hào quang lớn: Một là khi ở bên gốc cây bồ đề sắp thành đạo, liền phóng hào quang. Hai là khi sắp vào Niết bàn cũng phóng hào quang lớn.”[12] 

Như thế, từ quan điểm tu niệm Phật của Phật giáo Nguyên Thủy, Tịnh Độ tông phát huy yếu tố niệm Phật với tín ngưỡng tích cực, kinh luận Đại thừa cho là chánh tín trong pháp môn tu. Nhưng niệm Phật nhập vào cảnh giới Tam Muội (Chánh Định), phát huy sự quán chiếu và chứng ngộ Niết bàn được nhấn mạnh trong kinh Bát Chu Tam Muội, Kinh Lăng Nghiêm, hay Kinh Văn thù Thuyết Bát Nhã Kinh thì hoàn toàn phù hợp với quan điểm niệm Phật chứng đắc Niết Bàn trong kinh Nguyên thủyĐức Phật đã dạy như sau: “Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là Niệm Phật.

Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”[13]. Ý nghĩa niệm Phật như vậy thì Nguyên thủyĐại thừa đều chấp nhận.


II-   Bước chuyển từ triết lý niệm Phật đến tín ngưỡng niệm Phật:

Theo lịch sử Phật giáo thì từ thời Tổ Huệ Viễn đến thời Tổ Thiện Đạo có ba tư tưởng chính thực hành pháp môn Tịnh Độ gọi là “Tịnh độ tam lưu”. Trong tác phẩm: “Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập” [14]của Pháp Nhiên, một tăng sĩ Nhật Bản có chép rằng, có bốn nhân vật quan trọng trong sự phát triển tư tưởng Niệm Phật.  Phái thứ nhất là Huệ Viễn (334-416)  chủ trương quán tưởng niệm Phật, lấy kinh Ban Châu Tam Muội làm y cứ tu học. Thực hành quán tưởng niệm Phật, chuyên chú niệm Phật để đạt Tam Muội (Chánh định), thấy Phật vãng sanh. Phái thứ hai có Đạo XướcThiện đạo, nhưng chỉ gọi là Phái Thiện Đạo (613-681), tiếp nối tư tưởng của Đàm Loan chủ trương nương vào tha lực Phật bổn nguyện của Phật, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ. Phái thứ ba có Tam tạng Từ Mẫn (680-748), còn gọi là Pháp sư Huệ Nhật, chủ trương: Giáo, Thiền, Giới, Tịnh kiêm tu, thực hành tất cả pháp lành, chuyên tâm niệm Phật nguyện sanh Tịnh Độ.

Kinh văn Đại thừaquan niệm về yếu tố tha lực trong giáo nghĩa niệm Phật. Tha lực có phải là năng lực và bổn nguyện của Phật hay là hy vọng được thiết lập từ tính chủ quan của đệ tử Phật? Trong giáo lý Nguyên thủy hàm chứa yếu tố tha lực như là công đức phát sanh từ lòng kính trọng Đức Phật, kính trọng Tam Bảo, hay là từ công đức bố thí. Trong bài kinh “Lâu Đài Của Nàng Chiên Đà La (Candàlì -Vimàna)"[15] kể câu chuyệnmột phụ nữ nghèo, hạnh nghiệp xấu nhưng một lần lễ Phật với lòng thành kính, sau đó bị tại nạn lâm chung mà được sanh lên cảnh thiên cung. Hay câu chuyện: "Lâu đài do cúng mè"[16], kể lại một người phụ nữ nghèo khổ, từ lâu sống với nghiệp xấu đáng đọa địa ngục, nhưng nhờ một lần cúng dường mè cho Đức Phật mà được phước sanh thiên. Trong giáo lý Tịnh độ tin tưởng rằng người thường niệm, lễ Phật và tu các thiện pháp sẽ được Phật tiếp độ vãng sanh. Đây là yếu tố quan trọng phát huy quan niệm tha lựctự lực hợp nhất trong giáo lý Tịnh Độ. Nguyên Thủy Phật giáo, bậc thánh từ A na hàm trở lên mới thực sự không còn bị tái sanh vào thế giới Ta Bà, sẽ sanh vào cõi trời và sau cùng đắc quả A La Hán tại đó “Sau khi viên tịch ở đây, Ngài tái sanh vào cảnh giới Vô Phiền Thiên (Suddhavasa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết), một cảnh giới thích hợp với các vị A Na Hàm. Ngài sẽ chứng đắc Đạo Quả A La Hán và sống hết tuổi thọ trong cảnh giới này.”[17] Chúng ta có thể nói rằng từ bậc A Na Hàm mới được an trú trong cảnh “Thiên quốc Tịnh Độ”.

Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bitrí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì  còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phậtphương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.

Có thể nói niệm Phật theo hệ Nikaya là quán tưởng công đức Phật, Tịnh Độ tông phát huy yếu tố tha lựctín ngưỡng một cách triệt để, để truyền bá rộng rãi trong quần chúng. Nhưng phải ghi nhận rằng, yếu tố triết lý trong giáo nghĩa Tịnh Độ vẫn nhấn mạnh vai trò pháp Niệm Phật hướng đến chứng ngộ Niết bàn như giáo lý Nguyên Thủy. Như kinh Bát Chu Tam Muội, Kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã Kinh, Kinh Lăng Nghiêm và nhiều kinh khác.

Phái của ngài Huệ Viễn thể hiện pháp niệm Phật tam muội, thiên về phép quán tưởng niệm Phật, ít phổ biến rộng rãi, nhưng bậc trí tu hành pháp này rất thực dụng. Phái tổ Thiện Đạo khuyên niệm Phật chú trọng y cứ vào Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng ThọKinh Quán Vô Lượng Thọ, với tín ngưỡng là người niệm Phật được tất cả các chư Phật hộ niệm “Nhất thiết chư Phật hộ niệm”. Phái của ngài Từ Mẫn thì mang tính chất quân bình trong đời sống niệm Phật, vận dụng giáo nghĩa Phật dạy các tông phái Giáo-Thiền-Mật-Tịnh. Về sau, có Thiền sư Vĩnh Minh (904-975), có công khởi xướng tư tưởng Thiền Tịnh song tu,  điều hòa tư tưởng Thiền và Tịnh thông qua triển khai rộng phương diện triết lý của pháp môn niệm Phật. Điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm “Vạn thiện đồng quy tập”. Các nhà hoằng pháp xưa nay, tùy theo đối tượng và hoàn cảnh đúc kết tinh hoa Tịnh Độ để tu học và đưa về tính nhất quán với lập trường giáo lý Đại thừa.

III-  Vãng sanhchứng ngộtinh hoa của pháp môn niệm Phật

 Vãng sanh có nhiều chánh nhân, nhưng căn bản kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy rằng: "Nầy Vi Đề Hi! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước. Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì Tam Quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi. Ba là phát tâm Bồ Đề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng Kinh điển Đại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp."[18] Đó là hạnh tu thiết thực trong đời sống con người, mang ý nghĩa đạo đức, luân lý, giới luậttu tập trí tuệ.Vãng sanh theo Kinh A Di Đà dạy là phải đạt “Nhất tâm bất loạn”, một khi đạt nhất tâm bất loạn tức là thành tựu về thiền địnhtrí tuệ.

Khi có đủ tuệ giác thì mới có đầy đủ công đức giải thoát. Vãng sanh theo kinh Hoa Nghiêm được đúc kết trong quá trình thực hành mười nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền, đây là lộ trình tu học tích cực, có chí nguyện lớn trong tinh thần tự lợilợi tha, sau cùng đem hết thảy công đức nguyện sanh về cõi Tây Phương Tịnh Độ. “Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi, Phước lớn vô biên đều hồi hướng, Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm, Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.”[19] Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, muốn sanh Tịnh Độniệm Phật đắc vô sanh pháp nhẫn, tức thuộc bậc Bồ tát mới thông đạt pháp vô sanh, hay là bất thối địa. Đây là hạnh tu của Bồ tát Đại Thế Chí, dùng câu niệm Phật để thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tâm để nhập vào chánh định, khi có chánh định thì có tuệ giác ngộ và được vãng sanh. “Pháp tu nhân địa của con là chuyên tâm niệm Phật, chứng nhập pháp Vô Sanh Nhẫn.  Nay ở cõi Ta Bà này, rộng độ những người niệm Phật, vãng sanh về Tịnh Độ.  Phật hỏi về chứng đắc viên thông, con không lựa chọn, đều nhiếp lục căn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam Ma Địa, đó là thù thắng nhất.”[20].


Kinh Bát Chu Tam Muội dạy pháp quán tưởng niệm Phật. Đây là một phương pháp tưởng nhớ và quán sát hình ảnh Phật A Di Đà đến chuyên chú và nhập thiền định. Do sức tưởng niệm mà thấy Phật A Di Đà, thấy Phật là đồng nghĩa được vãng sanh. Nhưng muốn thấy Phật A Di Đà phải vào Tam Muội, tức nhập vào chánh định. Kinh chép: “Như ta vừa nghe danh hiệu đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác hiện nay ngài ngự ở thế giới chư Phật. Thế giới của ngài tên là Cực Lạc ngài thường ngự vào các pháp hội của các Bồ tát để nói pháp và giáo hóa. Rồi người nghe y theo chỗ nghe được chuyên tin tưởng nhớ quán sát không ngừng nghỉ cho đến khi hình ảnh trên hiện rõ ràng trong trí sau cùng được thấy Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác”.[21]  Và kinh này giải thíchphương pháp khởi tâm quán sát, biện tâm để đắc trí tuệ giải thoát Niết bàn như sau:  “Tâm có tưởng niệm tức thành sanh tử, Tâm không tưởng niệm tức là Niết Bàn, các pháp không chơn thật chỉ do tư tưởng duyên khởi, đối tượng bị nghĩ liền diệt chủ thể năng tưởng cũng không. Hiền Hộ! Ông nên biết các Bồ tát nhơn tam muội nầy chứng được trí giác vĩ đại.”[22]

Niệm Phật như thế nào để phù hợp với tông chỉ của giáo lý Phật dạy? A Di Đà chính là bản tánh của chúng ta, niệm Phậthàng phục phiền não để hiển lộ tánh giác  A Di Đà. Niệm Phật để chuyển thức thành trí, hiển lộ tự tánh Di Đà. Niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn, không còn tướng người niệm và đối tượng niệm: Niệm Phật siêu việt đối đãi năng sở. Niệm Phật quán tưởng Cực lạc tại tâm, cho nên không còn khái niệm đây là Ta Bà và kia là Tịnh Độ: Niệm Phật siêu việt chướng ngại không gian. Niệm Phật an trú ngay trong mỗi niệm không chấp trước, không mong cầu tương lai, không truy tìm quá khứNiệm Phật siêu việt thời gianNiệm Phật như thế, không lạc vào có và không, không chấp trước, tâm tánh rỗng lặng: Niệm Phật khế hợp trung đạo thật tướng. Công phu như vậy, thì Thiền, Tịnh và Mật hay các phương pháp tu học khác cùng điểm chung là hướng về Niết bàn giải thoát, như nước trăm sông đổ vào một biển cả mênh mong.

IV-  Lời kết

Trên phương diện tu học, thực tập bất cứ một pháp môn nào cũng có những phương tiện nhất định để điều phụcchuyển hóa tâm. Tịnh Độ đã từng phát triển mạnh mẽ trong tri thức quần chúng qua nhiều thế kỷ tại các nước Phật Giáo Đại thừa. Liên quan vấn đề tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật chúng ta có thể đi đến một vài nhận xét sau:

Thứ nhất: Tín ngưỡng và triết lý trong pháp niệm Phật  là điều kiện căn bản của mục đích vãng sanhthành tựu tuệ giác. Bồ tát Long Thọ xem pháp môn niệm Phật dễ thành tựu đạo quả vô thượng một cách mau chóng, gọi là “Dị hành đạo”(Dễ tu hành): “Phật pháp có vô lượng môn, như những con đườngthế gian có khó có dễ, đi bộ thì khó ngồi thuyền bè thì dễ. Muốn dễ đi mau đến phải nên niệm Phật, phải nên xưng danh hiệu Phật A-Di-Đà thì mau được đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng”

Thứ hai: Niệm Phậtphương pháp rất thù thắng để điều phục phiền nãothể nhập trạng thái chánh định, đó là tiềm năng của sự quán tâm để chứng ngộ Niết bàn. Vấn đề đặt ra là phương pháp niệm và quán tưởng theo đúng kinh điển Nikaya và kinh Đại thừa hướng dẫn.

Thứ ba: Trên phương diện triết lý thì Thực tướng niệm Phật là nội dung căn bản của các pháp môn , vạn pháp không ngoài tâm, mười pháp giới không ngoài tâm, vũ trụ không ngoài tâm, Tây Phương Tịnh Độ không ngoài tâm và niết bàn Niết Bàn không ngoài tâm. Tâm ấy là bản thể vạn pháp, chính là “Tự tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”.  Dù tu bất cứ pháp môn nào sau cùng cũng chứng ngộ tâm tánh ấy. Đó là tinh hoa của pháp môn Tịnh Độ, cho nên các vị tổ sư xem Pháp Niệm Phậtphương tiện thiết thực trong sự tu họctruyền bá Phật pháp.

Ghi chú:

[1] Lê Mạnh Thát- Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam,tr 396
[2] Lê Mạnh Thát- Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam,tr 407
[3] Lê Mạnh Thát- Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam,tr 412
[4] Kinh Tạp A Hàm số 980, Việt dịch: Thích Đức Thắng, Tuệ Sĩ chú giải.
[5] Kinh trung A Hàm-  Bài Kinh Trì Trai số 202, Hán Dịch: Phật Đà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ.
[6] Pháp sư Ấn Thuận-Trung Quốc Thiền Tông Sử- Niệm Phật tịnh tâm dữ tịnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã(Từ bản Hán)
[7] Lưu Quý Kiệt-Phật Giáo Triết Học, chương 23, Phật giáo thực tiển luận, Tr 433 (Xem từ bản Hán)
[8] Sđd, Lê Mạnh Thát- Từ điển bách khoa Phật giáo Việt Nam-2005, tr 446
[9] Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bổn (D.ii.14)
[10] Pāli: D.17. Mahā-Sudassana-suttanta. Tham chiếu, No.1(2) “Kinh Du hành”; No.5 Phật Bát-nê-hoàn Kinh, quyển hạ, Bạch Pháp Tổ dịch; No.6 Bát-nê-hoàn kinh, khuyết danh dịch; No.7 Đại Bát-niết-bàn kinh, Nghĩa Tịnh dịch; No.1451 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tì-nại-da Tạp Sự quyển 37, Nghĩa Tịnh dịch. (Theo chú thích của thầy Tuệ sĩ dịch kinh Trung A Hàm)
[11] Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bổn (D.ii.15).
[12]  Bộ A Hàm II-Kinh Trường A Hàm số 2, Kinh Đại Bát Niết Bàn, tr 23, Phật học tùng thư Linh Sơn Anh quốc ấn hành.
[13] Kinh Tăng Chi Bộ,tập I, chương 1, Phẩm Một pháp-Niệm Phật.
[14] Pháp Nhiên Thượng sư- “Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập”, xem  từ bản Hán.
[15]HT Minh Châu dịch, Tiểu bộ kinh- Lâu Đài Của Nàng Chiên Đà La (Candàlì -Vimàna)-VNCPH xuất bản 1999
[16] HT. Thích Minh Châu dich- Tiểu bộ kinh II, câu chuyện Lâu đài do cúng mè. VNCPH xuất bản 1999.
[17] Hòa thượng Narada- Đức Phật và Phật Pháp-Chương Con đường niết bàn,  Phạm Kim Khánh dịch từ Anh sang Việt, 1998.
[18] Kinh Quán Vô Lượng Thọ-HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[19] Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Phẩm Nhập Bất Tư Nghi Giải Thoát, Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh NguyệnThứ14
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã , Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh .
[20]  Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương, Pháp sư Minh Nhẫn - Việt dịch
[21] Kinh Bát Chu Tam Muội, Hán dịch: Đời Tùy Tam Tạng, Khất Đa và Cấp Đa 
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Lễ
[22] Kinh Bát Chu Tam Muội, Hán dịch: Đời Tùy Tam Tạng, Khất Đa và Cấp Đa 
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Lễ
[23] Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Quyển 26, Tỳ Đàm Bộ Nhất, Số 1521, Trang 40, Luận Tỳ Bà Sa,Phẩm Dị Hành, Trước tác: Thánh Giả Long Thọ, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Hồng Nhơn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14155)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39722)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15321)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13885)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37346)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40072)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14314)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12659)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14842)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42633)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13843)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12689)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11774)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22551)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12515)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13068)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13115)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14840)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12464)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11966)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11938)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51272)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12391)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6619)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30426)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13336)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30693)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19376)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11853)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13203)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13204)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30704)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12044)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12730)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29423)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11790)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11754)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10436)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9645)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9995)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35415)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10160)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10101)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10053)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9665)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27817)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15505)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13689)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9851)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9700)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18336)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9698)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8919)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31754)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12339)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13326)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8834)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9450)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11948)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9234)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9077)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29376)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9081)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33273)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30631)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31245)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37138)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32277)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27113)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8455)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19248)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13019)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant