Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

11 Tháng Tư 201607:17(Xem: 9941)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư

Bài Thứ Tư 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm, Bài Thứ Tư


FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm?

Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm.  Hai: Tâm Tư Duy (Thinking mind) qua khái niệm và ý tưởng. Các nhà khoa học não bộ cho biết còn có hai giác quan khác nữa: một là proprio sense, (proprio nghĩa là self), biết vị trí thân thể của chúng ta trong không gianthời gian. Giác quan này ít khi bị mất trừ trường hợp dây thần kinh liên hệ bị cắt đứt. Nạn nhân không thể nào dùng muỗng đưa thức ăn vào miệng, một hành động mà ta làm hàng ngày nhưng thường ít quan tâm. Chúng ta cũng mất ý niệm về thời gian (trước, sau)! Một giác quan khác mà các nhà khoa học não bộ cho biếtintero-ception, nghĩa là cảm giác trực tiếp bên trong thân tâm (lạnh, nóng, vui, buồn, lo lắng, đau đớn) mà từ ngữ thông thường gọi là gut feelings (biết trực tiếp tình cảm, cảm giácý tưởng và ‘biết’ về những cái chúng ta biết và cả những cái chúng ta không biết!) Chỉ có homo sapien-sapiens như loài người mới có trực quan này! Nhớ câu Socrate hay nhắn nhủ đồ đệ” “hãy tự biết mình” Làm sao tự biết mình? Nhờ trực quan này.

Trong khi thinking mind biết thế giới bên ngoài qua khái niệm, sensing mind biết thế giới bên ngoài qua những giác quan nói trên’. Các nhà khoa học não bộ gọi tên thinking mind là DOING MODE, và Sensing Mind là BEING MODE. Vun xới Chánh Niệm có nghĩa là chuyển từ Doing Mode qua Being Mode.

Tâm Tư Duy hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc, tạo ra văn minh, văn hóa, nghệ thuật, triết lý. Não bộ đã học được nhiều kỷ năng trong quá trình tiến hóa nhờ ký ức hoạt động (working memory). Không có ký ức này, mỗi lần chúng ta muốn buộc dây giày, chúng ta phải học lại từ đầu! Nhưng vì phải dựa vào ký ức nên Doing Mode  thường bị điều khiển bởi thói quenchúng ta gọi là automatic pilot và đưa đến tình trạngchúng ta cuối cùng chỉ ‘sống trong đầu’ và thường không còn ‘ý thức’ về những chuyện mà chúng ta ‘đang làm’. Khi ăn mà không biết hay quên mình ‘đang ăn’, khi đi mà ‘quên’ là mình ‘đang đi’ vì trong đầu tràn ngập một  dòng thác lũ của ý tưởng về các chuyện cần làm ngày mai hay tuần tới. Thành thử chúng ta quên sống trong hiện tại nên nhiều khi mất hay vuột cơ hội ‘sống’ những biến cố quan trọng trong đời. Sống như người say rượu và chết như người mộng du!

Chánh niệm giúp chúng ta sống trong khoảnh khắc hiện tại: hiện tạithời gian duy nhấtchúng ta có thể lựa chọn hành động thích hợp. Chánh niệm giúp chúng ta không bỏ phí thời gian và do đó tính ra chúng ta còn ‘lời’ thêm nhiều thời gian để làm những chuyện khác! Cho nên quý vị không thể nói thực hành Chánh Niệm ‘tốn’ thì giờ!

Tâm Tư Duy và Tâm Cảm Thọ: Phân tích ngược lại với cảm thọ

Thinking Mind có những chức năng như suy nghĩ, phân tích, hồi tưởng, hoạch địnhso sánh. Vì thế chúng ta luôn bận “sống trong đầu” với những lo âu này và không còn ý thức về những chuyện xảy ra chung quanh hay nhiều khi ngay trước mắt. Chánh niệm Sensing mind do đó có thể nói là một cách để biết trực tiếp thế giới bên ngoài và bên trong, hay chính xác hơn một cách khác để sống ở đời. Chánh niệm giúp chúng ta trở lại sống với trực quan cho nên chúng ta thấy, nghe, tiếp xúc, ngữi và nếm mọi sự mọi vật như chúng ta tiếp xúc với chúng lần đầu và chúng ta trở nên tò mò nhiều hơn về thế giới bên ngoài và thân tâm. Chánh niệm giúp chúng ta có một cách nhìn mới, không bỏ qua điều gì dù nhỏ đến đâu. Đây là nền tảng của chánh niệm: thức tỉnh, cảnh giác những gì xảy trong bên trong chúng tathế giới bên ngoài từng khoảnh khắc một.  

Mong cầu và vô cầu

Nhiều người thực tập chánh niệm với hy vọng thực hiện được ít nhất là thư giản, hay tăng mức miễn nhiểm để được khỏe mạnh, như khi học lái xe thì đến một mức nào đó, lái xe trở thành một kỹ năng tự nhiên. Điều này rất hợp lý theo sự suy nghĩ thông thường của chúng ta. Nếu không “được gì” thì thực tập làm chi cho mất công! Các Thiền sư dởm thường hứa Quảng hứa Tiều là thực tập Chánh Niệm, hành giảthể đạt được nhân điện (Thiền Bá Láp) hay khai mở luân xa (Thông Thiên Học). Đây là các loại Thiền ngoại đạo, xin cẩn thận khi thực tập vì có thể gặp các biến chứng tẩu hỏa nhập ma. Và Nhất là ngược với nguyên tắc vô cầu của Chánh Niệm.

Đây là một trong những nghịch lý đầu tiên của thực hành chánh niệm,  nếu nhắm một mục đích “nhất định’ có thể là một trở ngại cho động hơn là hữu ích, vì nếu không đạt được mục đích ‘mong muốn’, chúng ta có thể thất vọng là cho rằng Chánh niệm không thích hợp với mình, hay mình không có khả năng thực tập. Nhiều người mong cầu rất cụ thểhợp lý như mong làm giảm áp suất máu hay làm tăng mức “miển nhiễm”. Khi thấy điều này không xảy ra quý vị thất vọng dù nhiều thí nghiệm cho thấy Chánh Niệm thực sự làm giảm áp suất máu, nhưng đó là một hiệu quả phó sản của chánh niệm. Mục đích chủ yếu của Chánh Niệm lớn hơn các mong cầu đó nhiều: mục đích Chánh niệm là giúp quý vị tỉnh thức, chú ý vào bất cứ một hành động đang làm nào trên đời. Còn các kết quả khác sẽ tự nhiên đến.

Chánh Niệm yêu cầu chúng ta tạm thời gạt bỏ phán đoán, thương cái này, ghét cái nọ, mà chỉ ghi nhận. Chúng ta lùi ra sau một bước để quan sát cuộc đời đang hé lộ ‘như chúng là’ trong khoảnh khắc hiện tại. Tâm tiếp xúc với mọi sự mọi việc không thiên kiến (pre-conception), mà chỉ bàng quan ghi nhận hiện trạng đang xảy ra và sau đó chấp nhận thực trạng. Khi chấp nhận hiện trạng, quý vị vô tình làm giảm cường độ của biến cố này và cho phép mình tự do chọn lựa những hành động kế tiếp. Chánh niệm giúp vị kiểm soát lại cuộc đời mình và tìm ra một giải pháp tốt nhất có thể được trong khoảnh khắc hiện tại. Ví dụ khi bị chẩn đoán là bị bệnh ung thư, quý vị chấp nhận là mình bị bệnh, thay vì lo âu, sầu thảm, trách trời, trách đất và sau đó quý vị có thể tìm đúng thầy đúng thuốc để chữa bệnh. Đó là một giải pháp tốt nhất trong tình trạng đó.

Ý tưởng không phải lúc nào cũng là sự thật

Không ai biết ý tưởng từ đâu đến nhưng chúng ta lúc nào cũng suy nghĩ. Các Đại sư Tây Tạng gọi ý tưởngchữ viết trên mặt nước, đó mà không có đó. Thế nhưng Tâm chúng ta xem ý tưởng như những chất liệu có ‘thật’.  Nếu có một biến cố nào đó xảy ra, quý vị dễ bị ý tưởng khống chế, sai khiến. Thay vì là một ‘người phục vụ’ tốt, ý tưởng trở thành một ông chủ độc tài khó tính. Nhờ Chánh niệm quý vị nhận ra ý tưởng chỉ là một tâm hành trong ý thức, đến rồi đi. Chúng không phải là quý vị và cũng không phải lúc nào sự thật. Trong kinh Người Biết Sống Một Mình, Đức Phật cảnh báo là ‘nhiều khi chúng ta bị cuốn khỏi hiện tại, khi nghĩ thân này là Ta, cảm giác này là của Ta, ý tưởng này là của Ta’ (Nhất Hạnh Our Appoinment With Life, P 7). Ý tưởng chỉ là những phán đoán của tâm về quý vị và thế giới, nhiều khi đúng, nhiều khi sai. Thấy được điều này giúp quý vị giải thoát những lo âu không dứt trong tâm của quý vị.

Trốn tránhđối đầu

Trong Tâm tư duy, ngoài nỗi đau do biến cố gây ra, quý vị còn tự bắn vào mình mũi tên thứ hai làm tăng thêm mức căng thẳng đến khi quý vị kiệt sứcthân tâm sụp đổ lúc nào không biết. Chánh niệm quan sát nỗi đau thứ nhất và khuyến khích quý vị chấp nhận thực trạng (Things are the way they are!) và tìm ra một giải pháp ổn thỏa. Khi ghi nhận những khó khăn thì ý tưởng không tự động biến mất, nhưng ít ra chúng giảm cường độ rất nhiều. Quan sátchấp nhận hiện trạng thì chúng dần dần tự biến đi như những tâm hành khác. Đó là sự kỳ diệu của Chánh Niệm, chỉ cần quan sát theo dõi ý tưởng, quyền lực của ý tưởng tự nhiên giảm hay biến mất.

Trong Thinking Mind, quý vị thường có khuynh hướng sống lại những kinh nghiệm đau thương quá khứ và sống trước những đau thương có thể xảy trong tương lai. Không cần nói cường độ đau khổ dĩ nhiên là tăng lên. Chánh niệm huấn luyện cho Tâm chỉ ghi nhận ý tưởng khi chúng xuất hiện. Điều này không có nghĩa là quý vị bị nhốt trong hiện tại, nhưng biết quá khứquá khứ đã qua không trở lại. dự định trong tương lai là dự định trong tương lai, chưa đến.  Trong Sensing Mind quý vị có thể hồi phục sự quân bình tình cảm, giúp quý vị nhìn thấy rõ những nỗi khổ niềm đau nào không thể tránh được trong đời (như vô thường) và do đó có thể có đối ứng thích hợp. Và nếu cần có hành động quý sẽ chọn lựa những quyết định khôn ngoan nhất.

Chánh niệm giúp quý vị có những đối phó với trãi nghiệm bình thản hơn. Và về lâu về dài chánh niệm còn giúp quý vị độ lượngtừ bi đối với chính mình cũng như đối với người khác.

Về phương diện khoa học não bộ, Chánh niệm gây những biến đổi tích cực lên các tế bào não. Những phần tế bào có liên hệ đến các tình cảm tích cực như hạnh phúc, đồng cảm và từ bi được khích động nhiều hơn. Các nghiên cứu cụ thể cho thấy chỉ cần thực hành chánh niệm mỗi ngày trong vòng 8 tuần lễ (như trong chương trình MBSR), quý vị cũng có thể thấy được những ích lợi này.  Dr Sarah Lazar tại ĐH Massachusett cho biết là những người thực hành Chánh Niệm  trong nhiều năm, có mức điểm khởi đầu  (set point)  hạnh phúc cao, nghĩa là những người này ít giận dữ và ít hung hăng, luôn thấy hạnh phúc vui vẻ và trong người thêm nhiều năng lực hơn thay vì mệt mõi. Dr Lazar cũng nhận thấychánh niệm làm kích động một bộ phận của não gọi là Insular, bộ phận làm chúng ta tăng mức đồng cảm và lòng từ bi với người khác trong giao dịch xã hội. Đồng cảm nghĩa là hiểu được động cơ hành động của người khác, do đó thông cảm với họ, dù là mình không chấp nhận hành động của họ. Càng thực tập Chánh niệm nhiều chừng nào phần Insular càng hoạt động nhiều chừng đó. (Ibid p, 49)

Nếu khởi điểm (set point) hạnh phúc của quý vị tăng lên, về lâu về dài, dấu ấn này có thể được in đậm trong các genes cá nhân. Nghĩa là các thế hệ con cháu của quý vị là những đứa con có tâm tính hạnh phúc hơn con cái của những người không thực tập! (Mark Williams, 46).

Chánh niệm và các bệnh tật cơ thể.

Hai kết quả khả quan nhất của Chánh Niệm đối với cơ thể là làm giảm đau cho các bệnh nhân mà bệnh viện đã chịu bó tay, không còn giúp thêm gì nữa. Theo Kabat Zinn các bệnh nhân theo các khóa Chánh niệm MBSR nhiều nhóm tham dự viên có thể làm giảm các cơn đau nhức xuống từ 33%, một số nhóm khác có thể giảm các cơn đau mãn tính xuống đến 50%,  dù đo theo những chỉ số đau nhức nào. Nhiều thí nghiệm lâm sàng cho thấy Chánh niệm có những ảnh hưởng tích cực lên mức độ khỏe mạnh (wellness) của cơ thể. Trong một cuộc nghiên cứu do Viện Sức Khỏe Quốc Gia Mỹ công bố vào năm 2005 cho một số người tham dự thực tập Thiền Siêu Việt (Transcendental Meditation- Thiền Ấn Giáo) trong vòng 19 năm, số tử vong nói chung giảm xuống 23%. Số tử vong liên hệ đến các bệnh tim mạch cũng giảm xuống 30% và số tử vong liên hệ đến ung thư cũng giảm xuống một mức đáng kể. Việc này tương đương với việc sáng chế một loại thuốc mới, nhưng bệnh nhân khỏi phải bị các phản ứng phụ. (ibid, p. 51).

Chánh niệm và trầm cảm 

Hiệu quả nổi bật nhất của Chánh Niệm là đối với bệnh Trầm cảm. Song song với phương pháp MBSR, phương pháp MBCT (Mindfulness Based Cognitive Treatment) do GS Mark Williams và các đồng nghiệp tại ĐH Oxford phát kiến và áp dụng đã làm giảm mức độ tái phát của bệnh trầm cảm xuống còn một phần ba. Viện Y Tế Quốc Gia Anh Quốc khuyến cáo các bệnh nhân nên áp dụng phương pháp MBCT để chữa trị, hoặc áp dụng riêng, hoặc chung với việc dùng thuốc. Nghiên cứu do GS Heeringen ở Bỉ cũng cho thấy bệnh nhân hoặc chỉ thực tập MBCT cho thấy là nguy cơ tái phát giảm xuống một cách đáng kể. Một thí nghiệm khác ở Gia Nã Đại cho thấy kết quả còn ngoạn mục hơn nữa. GS Zindel và các đồng nghiệp ở ĐH Toronto chứng tỏ ngay cả khi bệnh nhân không uống thuốc chống trầm cảm khi thực tập MBCT, kết quả cũng tương đương, nếu không muốn nói còn tốt hơn! (ibid, p. 52).  Những kết quả trên đã được chứng nghiệm bằng nghiên cứu lâm sàng hay trong phòng thí nghiệm của những nhà khoa học não bộ đã thành danh, là hard science, chứ không phải là những lời quảng cáo thương mại nhảm nhí, kiểu sơn đông mãi võ.

Ngoài việc ngăn ngừa bệnh hoạn thân thểtâm lý, Chánh niệm còn giúp chúng ta thanh lọc tâm ý trở thành những người nhân ái hơn. Không có điều thiện nhỏ nào không làm, không phạm điều ác dù là nhỏ tới đâu. Nếu quý vị nào chưa thực tập, xin tỉnh tâm ngồi theo dõi hơi thở. Practicing is believing. Một, Hai. Vào, Ra. Nếu quý vị đang thực tập, tôi chỉ xin nhắc nhở một câu ngắn: Xin tiếp tục. Keep doing.

ABC Ứng Xử: Khoa học tâm lý Ứng Xử (Behaviorism) có đề cập tới hai giai đoạn: Khích động (Stimulus) và phản ứng (reponse). Giữa hai mốc này có một khoảng cách để chúng ta chọn lựa quyết định. Các giai đoạn này tượng trưng cho các giai đoạn ABC. A là stimulus và C là response. B là những lý giải cá nhân về sự cố. C là hành động phản ứng của chúng ta. Thí dụ một người bạn hẹn đi uống cà phê, nhưng không đến. Chúng ta có thể lý giải là bạn bận, chủ không cho về sớm, chẳng hạn. Hoặc chúng ta có thể nghĩ là bạn không còn muốn giữ mối liên hệ nữa. Hành động phản ứng của chúng ta tùy thuộc vào lý giải B. Không phải vì yếu tố A (bạn quên hẹn) mà chúng ta phản ứng cách này hay cách khác. Không cần nói, phản ứng của quý vị có thể khác nhau rất xa, từ tha thứ, thông cảm, hay giận dữ, cắt đứt mối liên hệ. Nếu khoảng cách từ A tới C kéo dài hơn, và chúng ta lý giải sự cố trong chính niệmchúng ta có thể phản ứngý thức, không làm chúng ta hối tiếc về sau.

Chánh niệm phản ảnh trung thực mục đích cứu khổ của Đạo Phật. Như Lai không dạy gì ngoài hơn là phương pháp diệt khổ. Chánh niệm là hương vị của đại dương, tức là hương vị cứu khổ, giải thoát. Đó cũng là đại sự nhân duyên tại sao Đức Phật ra đời, một món quà quý hiếm Phật giáo đã cống hiến cho nhân sinh. Một viên ngọc bích trong sáng được hầu hết các nhà Khoa học Tây phương hiện đại trân trọng, cổ độngáp dụng. Xin quý vị đừng bỏ phí đời mình như người cùng tử trong kinh Pháp Hoa!

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23092)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14104)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13019)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55170)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9216)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14485)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14203)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14237)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13918)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36384)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19935)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18214)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19258)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19192)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20352)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17699)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31602)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15982)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15074)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14739)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46260)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35986)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21082)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21667)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23453)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34468)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19543)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18992)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22984)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20231)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18417)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19894)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19582)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33474)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34596)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54588)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37804)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21194)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63753)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27541)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20336)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23092)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18931)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16366)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17985)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20996)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17410)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14508)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16418)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16067)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17535)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22048)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15157)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13529)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14393)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15431)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15049)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12747)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13407)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27451)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12570)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13248)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14515)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16279)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12440)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15469)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12888)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12227)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13236)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21709)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11302)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22793)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15135)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14978)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46246)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22528)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14631)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12671)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18946)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14786)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57074)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47564)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13689)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14624)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38435)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15435)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31281)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12557)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40474)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43487)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14448)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant