Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 13: Chánh Niệm (Sati)

26 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8866)
Chương 13: Chánh Niệm (Sati)

CHÁNH NIỆM CƠ BẢN

Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình

Chương 13: Chánh Niệm (Sati)

Chánh niệmphiên dịch từ ngôn ngữ Pali qua chữ Sati. Sati là hoạt động cụ thể. Nghĩa chính xác của nó là gì? Không thể có một câu trả lời chắc chắn được, nhất là theo ngôn từ. Từ ngữ được phát minh ra ở mức độ biểu tượng của tâm và dùng diễn tả những thể tính qua tư tưởng phân phối ký hiệu. Chánh niệmtrạng thái trước khi biểu tượng hình thành, nó không bị ràng buộc bởi lý lẽ. Tuy thế, chánh niệm có thể kinh nghiệm được — tương đối dễ làm — và có thể diễn tả miễn là bao giờ bạn vẫn luôn ghi nhớ rằng, lời nói thì cũng giống như ngón tay chỉ trăng, chứ không phải là mặt trăng. Cái kinh nghiệm thật sự thì nằm vượt xa từ ngữ và ký hiệu. Chánh niệm có thể diễn tả trong nhiều cách, thể, dạng khác hơn những gì đang được dùng ở đây mà vẫn hoàn toàn đúng như thường.

Chánh niệm là một tiến trình vi tế mà bạn đang dùng trong giây phút hiện tại. Thật ra, tiến trình này vượt xa ngoài phạm vi ngôn từ nhưng cũng không làm cho nó trở nên không thực tế. Mà còn trái ngược nữa, chánh niệmsự thật được kết tạo thành ngôn từ — mà ngôn từ thì thường chỉ là chiếc bóng mờ của sự thật. Cho nên, rất ư là quan trọng để hiểu rằng mọi vấn đề được nhắc ra ở đây chỉ là sự tương tự để gượng nói ra mà thôi. Nó sẽ không thể hiện trọn vẹn cái ý, vì bản chất của vấn đề thì nằm rất xa lý lẽ lời nói. Chỉ có thể kinh nghiệm mà thôi. Phương pháp tu thiền Minh Sát được đưa vào sử dụng bởi đức Phật từ hai mươi lăm thế kỷ trước đây, là một hệ thống cho hoạt động tâm lý, một cách dành riêng đối trị trạng thái chánh niệm không liên tục.

Khi bắt đầu lưu ý một điều gì đó, có một sát-na thời gian của sự chú tâm đơn thuần phát sinh, sát-na này là lúc ngay trước khi sự khái niệm hóa xảy ra để nhận dạng sự kiện. Đó chính là thời kỳ cho Chánh niệm. Thông thường, thời kỳ này thì rất ngắn. Chỉ một chớp mắt khi bạn tập trung nhìn vào sự việc, hay tập trung tâm vào một đối tượng, chỉ lúc trước khi bạn thể hiện cụ thể nó, cột nó vào tâm hiện tạicô lập nó khỏi tất cả những thứ khác. Nó xảy ra ngay lúc trước khi bạn nghĩ về nó — trước khi tâm của bạn nói, “Ô, nó là con chó.” Dòng chú ý trong phút giây đó của sự chú tâm đơn thuầnChánh Niệm. Trong sát-na tâm ngắn ngủi đó, bạn kinh nghiệm một vật thể như vô-thể, cảm nhận một dòng năng lưu thật vi tế trong phút giây của kinh nghiệm đơn thuần đang cài khớp với tất cả sự thật mà không có gì ngăn cách. Chánh niệm thì rất giống những gì bạn nhìn thấy bằng cái nhìn ngoại vi, nó trái ngược hẳn với lối nhìn bình thường, chủ quan. Nhưng giây phút li ti, không tiêu điểm này, sự chú tâm bao gồm một trí tuệ thâm sâu sẽ bị mất đi khi bạn tập trung tâm mình và cụ thể hóa cái đối tượng thành một vật thể. Trong quá trình nhận thức tương đối, từng giai đoạn của chánh niệm thì biến chuyển quá nhanh nên không thể quan sát kịp. Chúng tathói quen phung phí sự lưu ý của mình vào những phần sau đó, tập trung vào khái niệm, nhận diện ra khái niệm, đặt tên cho nó, và hơn tất cả, trói buộc vào trong dòng tâm hành, tạo ra những tư tưởng về nó. Cái sát-na chánh niệm ban đầu đã biến mất một cách nhanh chóng tự bao giờ rồi. Mục đích của tu thiền Minh Sát là để huấn luyện chúng ta kéo dài cái thời gian của sự tỉnh giác.

Khi Chánh niệm được bền vững nhờ thực hành theo những phương pháp đúng đắn, bạn thấy rằng, kinh nghiệm này rất là uyên thâm và nó thay đổi toàn bộ thế giới quan của bạn. Trạng thái quan niệm này cần phải học, nhưng cần hơn nữa là sự tu tập thường xuyên, bền bỉ. Một khi đã học được rồi, bạn sẽ thấy ra chánh niệm có rất nhiều lãnh vực rất hứng thú.

Những đặc tính của Chánh Niệm 

Chánh niệm là phản ánh tư duy. Nó phản chiếu những gì đang xảy ra trong hiện tạichính xác như-nó-là, không có một chút gì thiên vị.

Chánh niệm là sự quan sát không có phán đoán. Một khả năng của tâm quan sát mà không có phê phán. Với khả năng này, hành giả thấy sự việc mà không có kết án hay phán xét, không bị ngạc nhiên bởi bất cứ gì. Hành giả đơn giản đón nhận một sự kiện theo cùng một phong cách giống nhau như những gì nó-là, không quyết định, không đánh giá, mà chỉ quan sát. Xin ghi nhớ là, khi chúng tôi nói, “Cá nhân không quyết định và không đánh giá,” có nghĩa là thiền giả quan sát những kinh nghiệm giống như là một khoa học gia đang quan sát một đối tượng dưới kính hiển vi mà không có một quan niệm đã được định trước, mà chỉ thấy nó như-nó-là. Cùng theo chiều hướng ấy, thiền giả nhận ra Vô thường, Bất toại nguyện, và Vô ngã.

Một cách tâm lý, chừng như không thể nào chúng ta có thể quan sát khách quan những gì đang xảy ra bên trong, nếu cùng thời không chấp nhận những gì đang xuất hiện ở tâm. Điều này chỉ đúng đối với trạng thái tâm khó chịu. Để có thể quan sát nỗi sợ hại của mình, chúng ta phải công nhận là mình đang lo sợ. Chúng ta không thể nào xem xét sự trầm cảm của mình khi chưa hoàn toàn chấp nhận nó. Tương tự như thế cho sự tức giận, dao động, chán nản, và những trạng thái cảm giác khó chịu. Bạn không thể nào kiểm nghiệm thứ gì đó trong khi bạn chưa thể chấp nhận được sự tồn tại của nó. Bất kỳ kinh nghiệm nào bạn có, chánh niệm chỉ chấp nhận nó. Nó chỉ là một cố sự của đời sống, một đối tượng để chú tâm như những sự việc khác. Không hãnh diện, không xấu hổ, không bị đe dọa — những gì ở đó, tất cả ở đó, không gì hơn.

Chánh niệm là sự theo dõi vô tư, không đứng vào một bên nào, không bị ngăn ngại vào những gì được hiểu ra. Nó chỉ nhận thức. Chánh niệm không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố gắng lẫn tránh những trạng thái tâm không tốt; cũng không đeo bám theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu. Chánh niệm nhìn tất cả kinh nghiệm một cách bình đẳng, mọi tư tưởng, cảm giác như nhau. Chánh niệm không chơi trò ưa thích, không bưng bít, không ức chế.

Chánh niệm không phải là sự tỉnh giác dựa trên khái niệm. Một thuật ngữ khác cho Sati là “sự chú tâm đơn thuần”. Không phải là suy tư, không hợp tác với tư tưởng hay khái niệm, không trói buộc vào ý niệm hay hồi ức, chánh niệm chỉ ngắm nhìn, để ý đến kinh nghiệm, nhưng không so sánh với bất kỳ gì. Nó không đặt tên hay xếp loại đối tượng, chỉ quan sát mọi thứ giống như nó mới gặp lần đầu, không phân tích dựa trên sự phản ảnh và ký ức. Nó chỉ là kinh nghiệm trực giác về những gì đang xảy ra mà không có sự hiện diện phương tiện truyền đạt của tư duy. Nó đến trước hơn tư tưởng trong quá trình hình thành cảm giác.

Chánh niệm là sự tỉnh giác ở phút giây hiện tại, xảy ra ở đây và bây giờ. Nó là sự quan sát những gì đang xảy ra ở phút giây này. Vĩnh viễn ở trong hiện tại, thay đổi một cách dai dẵng như con sóng bạc không ngừng nhấp nhô theo thời gian. Nếu bạn đang nhớ về vị giáo viên lớp hai của mình, thì đó là ký ức. Khi bạn có chú tâm là mình đang nhớ về thầy cũ, thì đó là chánh niệm. Nếu kế tiếp, bạn khái niệm hóa cả tiến trình và tự nhủ thầm, “Ô, mình đang nhớ,” đó là suy nghĩ.

Chánh niệm là sự cảnh giác không ích kỷ. Nó xảy ra mà không đề cập tới bản ngã. Hành giảchánh niệm nhìn tất cả hiện tượng mà không ám chỉ gì đến khái niệm như “tôi”, “của tôi”, hay “thứ của tôi.” Ví dụ, giả sử có cơn đau ở nơi chân trái của bạn. Thông thường ý thức sẽ nói, “tôi bị đau.” Nếu có chánh niệm, hành giả chỉ đơn giản ghi nhận cảm giác như là một cảm thọ, mà không dán thêm cái khái niệm “tôi.” Chánh niệm giữ cho hành giả không thêm bớt bất kỳ sự nhận thức nào vào cảm thọ, không tăng cường thêm hay nhấn mạnh bất cứ gì. Hành giả chỉ quan sát chính xác những gì đang có ở đó — không có sự bóp méo, xuyên tạc nào cả.

Chánh niệm là sự nhận biết vô cùng tận. Trong chánh niệm, hành giả không dốc hết sức để đạt đến một kết quả nào cả, không cố gắng hoàn thành bất kỳ việc gì. Khi có chánh niệm, người ấy đang kinh nghiệm sự thật trong giây phút hiện tại về bất kỳ thể dạng nào đang có. Không có gì để đạt đến, mà chỉ có sự quan sát mà thôi.

Chánh niệm là sự nhận biết về những biến đổi. Nó đang quan sát cái dòng kinh nghiệm đang trôi chảy, nghiên cứu sự kiện đang thay đổi liên tục. Chánh niệm đang luôn thấy sinh khởi, tăng trưởng, và hoại diệt của tất cả mọi hiện tượng. Chánh niệm theo dõi một cách liên tục hiện tượng từng sát-na, quan sát tất cả — sinh lý, tâm lý hay cảm thọ — bất kỳ những gì hiện đang xảy ra trong tâm. Hành giả chỉ ngồi êm lặng để theo dõi cuộc trình diễn. Chánh niệm là sự quan sát bản chất của từng hiện tượng đi qua, theo dõi nó khởi sinh ra sao và hoại diệt như thế nào. Nhìn ra xem nó tạo cảm thọ ra sao và chúng ta phản ứng thế nào đối với nó, nó gây ảnh hưởng tới những lãnh vực khác làm sao. Trong chánh niệm, hành giả là một quan sát nhân khách quan với việc làm duy nhấttra xét liên tục những cuộc trình diễn của thế giới bên trong. Vui lòng ghi nhớ điểm này. Trong chánh niệm, hành giả theo dõi cái vũ trụ bên trong. Thiền giả đang phát triển chánh niệm sẽ không quan tâm đến vũ trụ bên ngoài. Nó vẫn tồn tại đó, nhưng trong khi tu tập, lãnh vực nghiên cứu của hành giảkinh nghiệm từng tư tưởng, cảm giác, nhận thức của mình. Trong tu tập, mình chính là phòng thí nghiệm cho chính mình. Cái thế giới bên trong có một khối tài liệu khổng lồ dùng vào việc phản ảnh lại cái thế giới bên ngoài và hơn thế nữa. Khám nghiệm những tài liệu này sẽ dẫn đến sự giải thoát.

Chánh niệmthể nhập vào sự quan sát. Thiền giả vừa là người dự phần và cũng vừa là người quan sát trong cùng một lúc. Hành giả theo dõi sự xúc động hay cảm giác sinh lý của mình, đồng thời cũng đang biết được chúng trong cùng lúc đó. Chánh niệm thì không phải là một sự nhận biết do vận dụng trí óc, mà chỉ đơn thuần là sự nhận biết. Ẩn dụ về phản ảnh tư tưởng thì không thể dùng ở trường hợp này. Chánh niệm là khách quan, nhưng không có nghĩa là lạnh lùng hay vô cảm. Nó là kinh nghiệm tỉnh thức về đời sống, sự thể hợp nhạy bén trong tiến trình biến đổi không ngừng của cuộc đời.

Nếu muốn dùng ngôn ngữ để diễn tả Chánh niệm thì đây là một việc cực kỳ khó khăn — không phải vì bởi nó phức tạp, mà là vì, nó quá đơn giản và rộng mở. Trở ngại này cũng xảy ra tương tự trong những lãnh vực khác trong kinh nghiệm kiếp người. Điều cơ bản nhất thì bao giờ cũng là điều khó nắm bắt nhất. Tra xem trong tự điển thì bạn sẽ thấy một ví dụ điển hình. Những ngôn tự dài thường hay có định nghĩa súc tích, còn những từ ngữ căn bản ngắn gọn như “cái” và “thì” thì lại có định nghĩa dài đến nhiều trang giấy. Trong vật lý, những hàm số khó nhất luôn diễn đạt những điều cơ bản nhất — chẳng hạn như những hệ cơ bản quan yếu nhất của cơ học lượng tử. Chánh niệmchức năng trước khi biểu tượng hình thành. Bạn có thể đùa giỡn với những tín hiệu, ngôn từ trọn cả đời, nhưng sẽ không thể nào hiểu thấu chúng trọn vẹn. Chúng ta sẽ không bao giờ diễn đạt được ý kiến của mình cho trọn vẹn, xem nó là cái gì, nhưng chúng ta có thể nói được, nó làm được gì.

Ba hoạt động căn bản 

Chánh niệm có ba hoạt động căn bản. Chúng ta có thể dùng những hoạt động này như là những định nghĩa thực dụng cho từng mệnh đề: (a) Chánh niệm nhắc cho chúng ta về những gì chúng ta nên chú tâm lúc đang làm; (b) Chánh niệm nhìn sự việc như-nó-là; và (c) Chánh niệm nhìn sâu vào bản chất của tất cả mọi hiện tượng. Hãy đi sâu vào chi tiết của những định nghĩa này hơn.

(a) Chánh niệm nhắc cho chúng ta về những gì chúng ta nên chú tâm lúc đang làm. Trong tu thiền, bạn đặt sự chú tâm của mình vào một đối tượng. Khi tâm bị trôi dạt khỏi điểm tựa này, thì chánh niệm nhắc nhở rằng ,tâm của bạn đang lang thang và những gì bạn cần nên làm vào lúc này. Chánh niệm mang tâm của bạn về lại với đề mục. Tiến trình này xảy ra một cách nhanh chóng và không có sự đàm thoại bên trong. Chánh niệm không phải là tư duy. Tu tập nhiều lần, sẽ thiết lập nên chức năng này như là một thói quen tâm lý, và sẽ theo bạn cho hết khoảng đời còn lại. Thiền giả nghiêm túc luôn luôn có sự chú tâm đơn thuần về sự cố trong mọi thời, ngày này sang ngày kế tiếp, dù cho có ngồi tọa thiền hay không. Đây là điều lý tưởng cao thượng cho những ai tu tập trong nhiều năm mới có được. Những thói quen ở trong tư tưởng qua nhiều năm tháng và đã bám chặt vào cách hành xử của chúng ta. Cách duy nhấtvun bón chánh niệm liên tục, bền bỉ trong thời gian dài tương đương. Chỉ khi nào chánh niệm hiện hữu, bạn mới nhận thấy ra thời điểm mình bị mắc kẹt trong mô hình tâm thức. Chỉ khi nào nhận biết rồi, bạn mới rút ra khỏi tiến trình hoạt động tư tưởng được. Chánh niệm mang sự chú tâm của bạn trở về lại điểm tập trung đúng đắn. Nếu bạn đang tọa thiền, thì điểm tập trung của bạn sẽ là đề mục thiền. Nếu bạn không đang ở trong buổi tọa thiền, chánh niệm sẽ chỉ áp đặt sự chú tâm vào chính nó, chỉ đơn thuần nhận biết những gì nổi lên mà không dính mắc — “À, cái này phát sinh… và bây giờ tới cái này.. và bây giờ…”

Chánh niệm cùng trong một lúc, biết tự chú tâm đơn thuần và phát huy chức năng nhắc nhở chúng tachú tâm nếu đang bị mất. Chú tâm đơn thuần là đang nhận biết. Chánh niệm tái lập chính nó, bằng cách nhận biết rằng nó đang vắng mặt. Ngay khi bạn nhận biết mình không còn có sụ chú tâm, thì sự chú tâm trở lại với bạn ngay lập tức.

Chánh niệm tạo ra cảm giác khác biệt riêng cho nó trong ý thức. Nó có phong vị — sáng, rõ, năng động. Tư tưởng nhận thức thì nặng nề, thô kệch, và cầu kỳ. Nhưng một lần nữa, đây cũng chỉ là ngôn từ. Sự tu tập riêng của bạn sẽ cho bạn thấy ra sự khác biệt. Sau đó, bạn có lẽ nghĩ ra những ngôn từ diễn đạt theo cách nhận biết dồi dào của mình. Nên nhớ, thực hành mới là điều chính yếu.

 (b) Chánh niệm nhìn sự việc như-nó-là. Chánh niệm không thêm vô hay bớt ra một điều gì tới sự hiểu biết, không bóp méo gì cả. Sự chú tâm đơn thuần chỉ nhìn vào những gì trổi dậy. Tư tưởng nhận thức phủ kín sự việc lên trên kinh nghiệm, làm cho chúng ta trĩu nặng với khái niệm và ý tưởng, nhận chìm ta trong cơn xoáy mạnh của đau thương, lo âu, sợ hãi, và tưởng tượng. Khi có sự chú tâm, bạn không còn đùa giỡn nữa, mà chỉ ghi nhận một cách chính xác những gì phát sinh trong tâm, rồi tới sự việc khác. “À, cái này.. rồi cái này.. và giờ thì đến cái này.” Thật là rất đơn giản.

(c) Chính niệm nhìn sâu vào bản chất của tất cả mọi hiện tượng. Chỉ duy có chánh niệm mới có thể nhận biết ra ba nét đặt thù chính mà Phật giáo dạy về chân đế rốt ráo. Trong kinh điển Pali, chúng được gọi là Vô thường, Khổ, và Vô ngã — sự vắng mặt của một tự ngã trường tồn. Những sự thật này không trình bày trong kinh điển như một giáo điều, rồi đòi hỏi một niềm tin mù quáng. Phật giáo cảm thấy rằng, chân lý thì phải phổ thông toàn thế giớihiển nhiên cho bất kỳ một ai muốn tra xét theo một đường lối đúng đắn. Chánh niệm là một phương pháp để điều tra. Tự thân của chánh niệmsức mạnh làm bộc lộ sự thật ở tầng mức thâm sâu nhất, sẳn có cho sự quan sát của con người. Ở mức độ kiểm tra vi tế, hành giả thấy được: (a) Tất cả những sự vật vốn tồn tại một cách tạm thời, đã bị điều kiện hóa; (b) Bất kỳ sự thể nào trong thế gian rồi cũng sẽ đưa đến tình trạng bất toại nguyện, và (c) Vốn không có một thật thể không đổi và thường hằng, mà chỉ có một tiến trình mà thôi.

Chánh niệm hoạt động giống như là một kính hiển vi điện tử. Nó làm việc ở mức độ tinh vi, có thể giúp con người thấy trực tiếp những sự thật. Những sự thật này, người ta vẫn thường nhận diện sau khi kiến tạo trong lãnh vực tư tưởng ý thức theo lý thuyết mà thôi. Chánh niệm có thể thấy rõ đặc tính Vô thường của mỗi nhận thức, thấy được tính tạm thời và hoại diệt của mọi sự vật có thể nhận biết, và thấy ra tính Bất toại nguyện vốn có của tất cả pháp điều kiện. Từ đó, hành giả hiểu biết ra không có lý do gì phải dính mắc vào bất cứ buổi trình diễn nào đi qua tâm. Bình anhạnh phúc không thể nào tìm được theo cách này. Cuối cùng, Chánh niệm cho thấy tất cả hiện tượng vốn Vô ngã, chứng minh ra rằng, chúng ta luôn chọn lựa một cách tùy tiện những mớ nhận thức, rồi bữa chẻ chúng ra từ dòng kinh nghiệm luôn thay đổi, sau đó khái niệm hóa chúng thành những sự kiện, như là một vật thể riêng biệt, bền vững. Chánh niệm có thể thấy tất cả những thứ này, chứ không phải nghĩ về chúng, mà là thấy một cách trực tiếp.

Khi chánh niệm được phát triển toàn vẹn, ba đặc tính của sự thật sẽ được thấy một cách trực tiếp, tức thời, và không cần sự can thiệp của tư tưởng ý thức. Thật ra, những đặc tính này vốn hợp nhất, và không thật sự tồn tại riêng biệt. Chúng đơn thuần chỉ là kết quả của sự phấn đấu trong tiến trình xây dựng nền tảng cho Chánh niệm, và thể hiện nó qua những biểu tượng tư tưởng cồng kềnh, không thích hợp của ý thức. Chánh niệm là một tiến trình, nhưng không xảy ra từng bước. Nó là quá trình thuộc chính thể luận, xảy ra như một thể chung: bạn nhận thấy sự thiếu chánh niệm, và sự nhận thấy ấy lại chính là kết quả của chánh niệm. Chánh niệmchú tâm đơn thuần, và chú tâm đơn thuầnnhận biết sự việc chính xác như-nó-là mà không có sự bóp méo; và nhìn nó theo chiều hướng của chân đế: vô thường, khổ, và vô ngã. Tất cả xảy ra trong vài sát-na tâm. Nhưng điều này không có nghĩa là, bạn lập tức đạt đến sự giải thoát (không còn có những khuyết điểm của con người), mà chỉ là kết quả của phút giây chánh niệm đầu tiên mà thôi. Học cách hội nhập những tư liệu này vào trong đời sống tri thức của mình, lại là một tiến trình hoàn toàn khác hẳn. Còn học để kéo dài trạng thái chánh niệm liên tục cũng là một giai đoạn khác nữa. Nhưng chúng đều là những qui trình đầy hứng khởi và xứng đáng để gắng sức.

Chánh niệm (Sati) và Thiền Minh Sát tuệ (Vipassana)

Chánh niệmtrọng tâm của thiền Minh Sát và là chìa khóa cho cả qui trình. Nó vừa là mục đích và cũng vừa là giải pháp dùng để đi tới cuối đường. Bạn có chánh niệm bằng cách sống trong sự chú tâm. Có một từ ngữ Pali khác được dùng tương đương với Chánh niệm là Appamada, có nghĩa là không cẩu thả hay sự vắng bóng của trạng thái điên rồ. Người để ý liên tục đến những gì đang thật sự xảy ra trong tâm mình sẽ đạt đến trạng thái tỉnh táo tột bực.

Theo ngôn ngữ Pali, Sati cũng bao hàm ý nghĩa là ghi nhớ. Nó không phải là ký ức theo sự nhận biết của ý tưởnghình ảnh trong quá khứ, mà là rõ ràng, trong sáng, trực tiếp, không dùng ngôn từ để biết cái gì và không phải cái gì, cái gì đúng và cái gì không đúng, về cái gì chúng ta đang làm và nên làm thế nào về sự việc. Chánh niệm nhắc nhở hành giả áp dụng sự chú tâm vào đối tượng đúng đắn ở thời điểm thích hợp và xử dụng chính xác mức năng lượng cần thiết thể hoàn thành công việc tu tập. Khi năng lượng này được áp dụng đúng mức, hành giả có thể trụ bền bỉ trong trạng thái yên tĩnh và cảnh giác. Chừng bao lâu trạng thái này tồn tại, thì những chướng ngại hay kích thích tâm lý không thể nổi lên — không có tham, sân, khát vọng hay lười biếng. Nhưng loài người chúng ta hay làm sai, và hay lập lại nhiều lần. Không kể đến những phấn đấu chân thành, thiền giả thỉnh thoảng để cho chánh niệm trốn mất và rồi bắt gặp mình đang bị mắc kẹt trong niềm hối tiếc, hay những thất bại của kiếp người. Chính chánh niệm nhận ra sự thay đổi kia, và cũng là nó nhắc nhở thiền sinh áp đặt năng lượng cần thiết để thoát ra khỏi trạng thái thất niệm. Những lần lẫn trốn này, xảy ra hết lần này sang lần khác, nhưng sẽ ít dần theo sự tu tập. Một khi chánh niệm đẩy những tâm ô uế sang một bên, thì những trạng thái tâm lành mạnh mới có chỗ sinh khởi. Sự ghét bỏ sẽ được thay thế bằng tâm Từ, buông xả thay cho khát vọng. Chánh niệm nhận ra sự thay đổi và nhắc nhở thiền giả duy trì sự bén nhạy của tâm, để kéo dài những trạng thái tốt này. Chánh niệm giúp cho sự phát triển trí tuệlòng bi mẫn, bằng không chúng không thể nào trưởng thành trọn vẹn.

Cơ cấu tư duy nằm dấu sâu kín trong tâm, khiến ta chấp nhận những gì tâm cho là kinh nghiệm tốt đẹp-dễ chịu, và tránh né những gì xấu xa-khó chịu. Hệ thống cơ cấu này đưa đến những trạng tháichúng ta cần huấn luyện mình phải tránh — những thứ như là tham lam, khát khao, ghét bỏ, ác cảm, và ganh tỵ. Chúng ta chọn giải pháp tránh né những chướng ngại này, không phải là vì mình phạm tội lỗi theo nhận xét của người thế gian, mà là bởi vì chúng có xu hướng ép buộc; chúng điều khiển tâm và nắm bắt trọn vẹn sự chú tâm; chúng quấn quít, quay cuồng trong chu kỳ tư tưởng, tách rời chúng ta khỏi thực chất của đời sống.

Những chướng ngại này không thể nào sinh khởi khi có sự hiện diện của Chánh niệm. Chánh niệm là sự chú tâm vào sự thật ở phút giây hiện tại. Do đó, nó đối lập trực diện với những trạng thái tâm bàng hoàng vì đang bị chướng ngại. Chỉ khi nào chúng ta để cho chánh niệm của mình tuột mất, thì cái cơ cấu tiềm ẩn kia sẽ nắm quyền ngay — gom tóm, bám víu, và khước từ — để rồi sự kháng cự nổi lên và che khuất đi tỉnh giác. Chúng ta không còn nhận ra sự thay đổi đã và đang diễn ra — vì bởi quá bận rộn với những tư tưởng thù hận, hay tham muốn, hay là những gì khác gần giống như thế. Nếu là một người không có tu tập thì sẽ tiếp tục tình trạng này không biết đến bao giờ, còn là một thiền giả thì sẽ nhận biết ra những gì đang xảy ra. Chính Chánh niệm nhận biết sự thay đổi này, rồi cố gắng duy trì chính nó lâu dài ra, để đừng cho sự chướng ngại trở lại. Như vậy, chánh niệm là liều giải độc đặc biệt dành riêng cho những triền cái. Nó vừa được dùng để điều trị, mà cũng dùng để ngăn ngừa.

Chánh niệm trọn vẹnbền vững là một trạng thái vắng mặt hoàn toàn những luyến chấp vào bất cứ gì trên thế gian. Nếu chúng ta có thể duy trì trạng thái này, thì không còn chướng ngại nào nữa có thể cản trở bước tiến của chúng ta đi đến sự giải thoát ra khỏi những khuyết điểm con người. Chánh niệm không phải là sự tỉnh giác bên ngoài. Nó nhìn sự kiện ở mức độ sâu thẵm bên dưới của khái niệm và quan điểm. Sự quan sát thậm thâm này sẽ dẫn đến sự tin chắc mà không còn có bất kỳ một mảy may phân vân nào cả. Nó biểu hiện tự thân một cách khẳng định như là một sự chú tâm kiên địnhbền vững, không tàn héo, và không bao giờ lơ đễnh. 

Sự chú tâm xem xét tinh thuần, rõ nét không chỉ giữ cho những chướng ngại tránh xa, mà còn làm bộc trần những cơ cấu của chúng và hũy diệt dần chúng đi. Chánh niệm làm trung hòa sự ô nhiễm trong tâm. Kết quả sẽ là một cái tâm không bị lem luốc và không bị tổn thương, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm của đời sống nữa. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15581)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14054)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55114)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14445)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14166)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14208)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36323)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19157)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20290)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17640)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14685)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46176)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35944)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19490)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20194)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18373)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19533)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33417)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34482)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54524)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37729)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27445)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17924)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14474)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21984)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14370)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15402)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14997)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12700)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12516)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16242)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15420)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21652)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22732)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14950)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46191)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12621)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14739)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56974)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13841)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13659)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14577)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant