Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Hệ Tăng-già Tây Tạng

26 Tháng Mười 201606:45(Xem: 9464)
Thế Hệ Tăng-già Tây Tạng


1. Sơ truyền

Phật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua Khri-srong- lde-btsan (755-797 Tl), với sự trở lại Tây tạng lần thứ hai của Tịch Hộ (Śāntakṣita, Tạng: Zhi-ba-‘tsho [1]), bấy giờ mới có người bản địa chính thức xuất giathọ giới.

Khri-srong lde-btsan là một trong ba vị Tạng vương được tôn xưng như là ba vị “Vua của Chánh pháp” (dharmarāja, chos-rgyal), vốn là những trụ cột chính cho sự tồn tại và phát triển của Phật giáo tại Tây tạng. [2]

Tây Tạng Vương Thống Ký [3] chép, ông là con trai của Khri-lde gtsug-brtsan và Kim Thành Công chúa, nhưng bị bà Trưởng Phi của Khri-lde gtsug-brtsan là sNa-nam bza’ âm mưu chiếm đoạt làm con. Sau một cuộc trắc nghiệm, tiểu vương tử nhận diện mẹ mình chính là Hán Phi Kim Thành Công chúa. [4]

Cuối đời vua Khri-lde gtsug brtsan (Mes Ag-tshom, 704-755 Tl.), hình như một phái đoàn do sBa Sang-shi và dẫn đầu được gửi sang yết kiến Hoàng đế Trung hoa để thỉnh Kinh sách và Hòa thượng người Hán sang Tây tạng truyền pháp. Trên đường về nước, ngang qua Ích châu, tại đây họ gặp Kim Hòa thượng, [5]người có khả năng phục hổ, và tiên tri. Vị Hòa thượng này dự báo cho phái đoàn biết rằng vua của họ (Khri-lde-gtsug-brtan) đã chết, bọn quyền thần phá hoại Phật pháp; và nếu tiểu vương tử sống sót, ông sẽ quy y PhậtPhật pháp trở lại hưng thịnh. Tiểu vương tử này chính là Tạng vương Khri-srong-lde-btsan. Kim Hòa thượng cũng dự báo rằng sẽ có Bí-sô Śāntarakṣita, Vương tử nước Sha-hor, sẽ đến Tạng hoằng dương Phật pháp. [6]

Kim Hòa thượng nói đây được biết là Vô Tướng thiền sư, người Cao ly, đắc pháp với Thiền sư Phổ Tịch, sau lánh sang ẩn tu ở chùa Tịnh Thiền, Nhật Nam (釰南), truyền pháp cho đệ tử Bảo đường Vô Trụ, tịch năm Bảo ứng thứ nhất (672 Tl). [7] Sứ đoàn Sang-shi gặp Sư ở Ích châu và được báo tin vua của họ đã chết. Khri-lde-gtsug-brtan chết khoảng năm 755 Tl. Sứ đoàn này, gồm 5 người, vậy do Khri-lde-gtsug-brtan gửi đi trước khi chết. Nếu sự kiện này khả tín, họ có thể gặp Kim Hòa thượng trước 755.

Khi họ về nước thì quả như lời thiền sư dự báo. Bấy giờ Khri-srong lde-btsan mới 13 tuổi; [8] quyền thần Ma-zhang khron-pa-skyes và những người bài Phật ra pháp lệnh chế định (khrims bu chung) cấm mọi người học Phật. Sang-shi từ Trung quốc thỉnh về được 1000 quyển Kinh Phật, [9] nhưng do tình hình như vậy nên phải ẩn dấu ở Chos-brag. Tuy vậy, Khri-srong-lde-btsan, như tường thuật bởi Bu-ston, khi đến tuổi trưởng thành, tìm hiểu và biết cha và ông nội là những vị vua sùng thượng Phật pháp, ông bắt đầu nghiên cứu kinh điển. Sang-shi trình vua số Kinh thỉnh được. Vua rất mừng, lập người phiên dịch. Trong số đó có Ananta từ Kashmir sang, và một vị Sư người Hán là Me mGo [10] . Dự định này không thực hiện được vì bị Ma-zhang-grom-pa-skyes cản trở, và trừng phạt Sang-shi. Một số triều thần tin Phật bèn đề nghị đày Sang-shi và gSal snang đi sang Mang yul. [11] gSal snang không ở lại Mang yul, mà đi thẳng sang Ấn-độ, hành lễ chiêm bái tại Bồ-đề tràng. Ông gặp Tịch Hộ (Śāntarakṣita) tại Nepal và thỉnh cầu sang Tạng. Ông báo cáo với Khri-srong lde-btsan, hết sức tán dương tài trí của Tịch Hộ (Śāntarakṣita). Vua bảo hãy tạm ẩn; rồi bí mật lập mưu với Zhang nyam bzang và ‘Gos khri bzang, đánh lừa và chôn sống Ma-zhang trong một ngôi mộ ở sTod lungs.

Khởi thủy, khi vào Tạng, Tịch Hộ hội kiến với Khri-srong lde-btsan tại cung rLung tshugs. Tại đây, trải qua bốn tháng, Tịch Hộ giảng thuyết cho vua và các triều thần về 10 thiện nghiệp, 18 giới, 12 chi duyên khởi, qua một người thông dịch là Ananta. Thế nhưng, ngay lúc đó nạn dịch lại xảy ra và một trận lụt lớn. Những người bài Phật cho là sự hiện diện của Tịch Hộ khiến cho các thần linh nổi giậntrừng phạt. Tịch Hộ phải tạm thời lánh về Nepal. Trước khi đi, Tịch Hộ nói với vua rằng xứ Tây tạng quá nhiều ma quỷ, đề nghị phải thỉnh Padmasambhava mới trấn áp được bọn này. Vua bèn lập phái đoàn sang Ấn nghinh thỉnh Padmasambhava.

Khi đặt chân lên đất Tây tạng, Padmasambhava lần lượt khuất phục các thần linh, ma quỷ bản địa, nhưng cho rằng đây chưa phải là thời cơ Phật pháp được xương minh, do đó từ giã và trở về Ấn, sau 13 năm chinh phục Tây tạng.

Lần này Tịch Hộ quay trở lại Tây tạng, do bởi bọn quỷ thần bản xứ đã bị Padmasambhava khống chế, không còn gây nhiễu hại, việc truyền bá có vẻ thuận duyên. Vị A-xà-lê Bồ-tát (mKhan po Bodhisattva) [12]bắt đầu kiến thiết chùa bSam yas theo quy mô kiến trúc Uddandapuri (Odantapuri), một đại tăng viện ở Bihar được xây dựng bởi vua Gopala, triều đại Pala (750-770 Tl).

Sự kiện quan trọng đáng được nói ở đây là giới đàn truyền giới cụ túc đầu tiên được thiết lập. Phật giáo truyền vào Tây tạng đã hơn trăm năm nhưng chưa có người xuất gia chính thức thọ cụ túc như pháp. Sử gia Bu-ston ghi, vào năm con dê (775 Tl), Tịch Hộ đã thỉnh được 12 bí-sô người Kasmir thuộc bộ phái Hữu bộ sang Tây tạng. Một cuộc sát hạch được tổ chức, và kết có 7 người được chọn cho thọ cụ túc. Nhóm người này được gọi là sad mi mi bdun (bảy người dự tuyển). Cũng theo Bu-ston, có hai truyền thuyết khác nhau về danh hiệu 7 vị giới tử này. Thứ nhất, Hòa thượng truyền giới là Thí Giới (Dānaśīla) [13] và thuyết thứ hai, được phổ biến hơn, Hòa thượng Đường đầu truyền giới chính là Tịch Hộ. Bộ phái truyền thừa chính thứcThuyết nhất thiết hữu bộ, và Luật tạng được áp dụngCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tì-nại-da. Trong hệ này, các Tổ truyền thừa được kể, khởi thủy từ Tôn giả Xá-lị-phất (Sāriputra), cho đến La-hầu-la (Rāhula), [14] rồi đến Long Thọ (Nāgārjuna), Thanh Biện (Bhāvaviveka), Thi-lị-cấp-đa (Śrīgupta), Trí Tạng (Jñnagarbha), và Tịch Hộ (Tĩnh Mệnh). Hình tượng các vị Tổ này được vẽ trên tường Bắc của đại tăng viện bSam yas.

Phả hệ truyền thừa được kể như vậy có thể đối chiếu với truyền thuyết được lưu hành tại Trung hoa ghi nhận bởi Lương Tăng hựu (455-518) trong Xuất Tam tạng ký tập như sau: 1. Đại Ca-diếp (MahāKaśyapa), 2. A-nan (Ānanda), 3. Mạt-điền-địa (Madhyāntika), 4. Xá-na-bà-tư (Śavaṇvāsī), 5. Ưu-ba-quật-đa (Upagupta), … 22. La-hầu-la (Rāhula), … 34. Long Thọ (Nāgārjuna), 35. Đề-bà (Āryadeva)… [15] Theo các phả hệ này, các Đại luận sư Đại thừa như Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, về mặt truyền thừa Luật, thảy đều thuộc Hữu bộ. Họ không phải là những vị xuất thân từ Đại chúng rồi sau đó trở thành Đại thừa như phổ thông được biết.

2. Tranh luận bSam yas (Sam-ye)

Tịch Hộ (Śāntarakṣita) trú tại Tây tạng cho đến năm 783 Tl thì tịch. Trước khi tịch, Tịch Hộ cảnh báo vua Khri-srong lde-btsan rằng trong tương lai Phật pháp sẽ suy tàn do bởi ảnh hưởng người Hán, và khuyên vua nên thỉnh đệ tử của mình là Kamalaśīla (Liên Hoa Giới) sang đây chủ trì giải quyết những xung đột sẽ xảy ra.[16]

Có lẽ lúc bấy giờ Tịch Hộ chứng kiến hoạt động cùa các Thiền sư Hán tại Tây tạng cho nên mới có dự báo này.

Quả thật, các bản văn được phát hiện tại Đôn hoàng cho thấy Thiền tông Trung hoa đã có ảnh hướng khá lớn dưới thời Khri-srong lde-btsan. Tình hình này được ghi nhận bởi Đốn ngộ Đại thừa chánh lý yếu quyết:[17] qua sự trao truyền yếu chỉ Thiền tông của Hòa thượng Ma-ha-diễn, Hoàng hậu Một-lô thị tỏ ngộ, quyết chí xuất gia. Bấy giờ di mẫu của Tán-phổ (đây chỉ Tạng vương Khri-srong lde-btsan) là bà Tất-nang Nam thị, cùng với các phu nhân của các đại thần, sau khi nghe thuyết Đại thừa pháp, thảy đều xuất gia. Đây chẳng khác nào Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni khởi xướng vậy.[18] Trong đây, “Di mẫu Tất-na Nam thị” chính là sNa-nam bZa’, vợ vua Khri-lde gtsug-brtan mà Bu-ston chép là đã có tranh chấp với Kim Thành Công chúa về sự kiện ai là mẹ đích thực của Khri-srong lde-btsan.[19] “Hoàng hậu Một-lô thị”[20] được nói ở đây là Hán âm của Tạng ngữ ‘Bro bza’, bà phi thứ ba của Khri-srong lde-btsan. Bà không có con, sau xuất giapháp hiệu là Byaṅ-chub sgron.[21]

Ma-ha-diễn đến Tây tạng khoảng sau năm 786, theo như ghi chép trong Đốn ngộ Đại chánh lý: “Thần Sa-môn Ma-ha-diễn nói: Vào ngày mà Sa châu đầu hàng, vâng theo ân mệnh của Tán-phổ (Tạng vương), từ xa được kêu gọi về khiến khai thị Thiền pháp, bèn đến Lhasa cùng mọi người tham vấn Thiền pháp…”[22]

Sa châu, tức Cam túc Đôn hoàng ngày nay, theo nhiều khảo cứu, bị Tây tạng chiếm 786 cho đến 846 Tl.[23]Hoặc giả, trong khi quân Tây tạng chiếm cứ Đôn hoàng, bấy giờ Hòa thượng Ma-ha-diễn đang ở đó truyền bá đạo Thiền; Khri-srong lde-btsan vì hâm mộ Phật pháp, nghe danh Sư nên thỉnh về kinh đô Lhasa truyền Thiền. Bởi vì, cũng trong tình hình này, Đàm Khoáng từ Trung nguyên lánh nạn đao binh về Đôn hoàng ẩn tu từ năm 763, sau biến cố này, cũng được mời về Tây tạng, và đã soạn Đại thừa nhị thập nhị vấn, trong đó nêu 22 câu hỏi của Khri-srong lde-btsan và 22 câu giải đáp của Đàm Khoáng.[24]

Xem thế, ngay từ đầu, Khri-srong lde-btsan không có thành kiến với Phật giáo Hán, mặc dầu thường xuyên xung đột quân sự với các vua Đường.[25] Thế nhưng, theo ghi chép của sử gia Phật giáo Tây tạng Bu-ston, số môn đồ của Hòa thượng Ma-ha-diễn ngày càng đông. Những người này theo đoạn kiến, cho rằng “các hoạt động thiện nghiệp bởi thân và ngữ không thể khiến thành Phật.” Nhiều người Tây tạng học theo thuyết này. Trong khi số khác học theo giáo pháp truyền bởi A-xà-lê Bồ-tát (Tịch Hộ). Do đó xảy ra xung đột giữa hai phái. Khi vua tuyên bố hãy thực hành theo giáo pháp truyền bởi A-xà-lê Bồ-tát, phái đốn môn tức sư đồ Ma-ha-diễn nổi giận, hăm dọa sẽ giết bất cứ ai chống đối. Vua lo ngại, do thế, sai Jñānendra sang Ấn nghinh thỉnh Kamalaśīla.[26]

Từ năm 792-794, một cuộc tranh luận đã diễn ra giữa hai hệ tư tưởng xung đột, một bên đại diện Thiền tông Hán là Ma-ha-diễn, và một bên là Kāmalaśīla, truyền nhân của Trung quán-Du già từ Ấn-độ. Nếu giới hạn trong vấn đề xung đột hệ phái tư tưởng, ở đây nên nói là xung đột giữa thiền tông của Ma-ha-diễn với học thuyết Tánh Không của Kamalaśīla; giữa đốn và tiệm. Phản ánh rõ xung đột này có thể thấy trong Bhāvanākrama (sGom pa’i rim pa; Tiệm thứ tu tập) của Liên Hoa giới (Kamalaśīla), trong đó một đoạn Liên Hoa Giới nêu lập trường của Ma-ha-diễn Hòa thượng rồi tiến hành phê phán.

Thực tế, ngay tại bản địa Trung quốc, Thiền tông cũng đã có những mâu thuẫn với các tông phái Phật giáo khác. Với chủ trương “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, việc nghiên cứu Tam tạng Kinh điển không được xem trọng, mặc dù các Thiền sư cũng hay dẫn Kinh và Luận nhưng đấy chỉ là cách “mượn lời”. Tình huống này hẳn cũng đã xảy ra tại Tây tạng, khi số đông tin theo Thiền phái. Tịch Hộ tất nhiên đã thấy rõ hậu quả tai hại nên có lời cảnh báo Tạng vương.

Kết quả, theo Đốn ngộ Đại thừa chánh lý, “Ma-ha-diễn đại thắng”, ngay trong phần đầu giới thiệu: “Bọn Tiểu thừa (chỉ Liên Hoa Giới) trí cạn, chẳng hiểu gì ý nghĩa bao la, chẳng khác nào như chút ánh sáng đom đóm mà so với ánh sáng mặt trời (chỉ Ma-ha-diễn)” Đoạn sau lại tiếp: bọn Bà-la-môn (chỉ Liên Hoa Giới) nói đến đâu thì lý bị khuất đến đó; xét đến nghĩa thì lời lẽ cạn. Mũi nhọn đã bị bẻ gãy mà còn nghĩ chạy theo dấu xe, bèn mê hoặc đại thần, mưu kết bè đảng, khiến cho Thổ-phồn tăng là Khất-xa-di (Myang sha mi) và Thi-tì-ma-la (rNgegs Byi ma ba), vì pháp quên thân mà tự sát.”[27]

Kết quả, theo Bu-ston, ngược lại. Sư đồ Ma-ha-diễn (sTon mun pa) đuối lý phải dâng tràng hoa cho Kamalaśīla, đúng như thể thức quy định. Do kết quả này, vua tuyên bố: Từ nay trở đi, tất cả phải học theo giáo nghĩa của Long Thọ. Sau đó, Ma-ha-diễn cùng với các môn đồ bị trục xuất khỏi Tây tạng.

Mặc dù Đốn ngộ Đại thừa chánh lý có tuyên bố như vậy, nhưng theo thực tế mà biết, với sở học của Kamalaśīla, truyền nhân của Trung quánDuy thức tại Ấn-độ, lại tinh thông Nhân minh luận của Dignāga; với chủ trương “đốn ngộ thành Phật” và duy chỉ bằng khẩu đầu “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, Ma-ha-diễn không phải là đối thủ tranh biện với Kamalaśīla.

Công nhận Trung quán là hệ tư tưởng chính thức của Phật giáo Tây tạng, đồng thời Khri-srong lde-btsan cũng công bố Tăng-già Tây tạng chỉ theo một hệ Luật duy nhấtCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tì-nại-da. Như vậy, từ thủy chí chung, tại Tây tạng chỉ truyền thừa một hệ Luật duy nhất, và cũng chỉ biết đến hệ Luật này. Không như Phật giáo Hán, mặc dù hệ truyền thừa chính thứcLuật Tứ phần của Dharmagupta, nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều hệ Luật khác qua các công trình Hán dịch.

3. Tăng-già phục hoạt.

Hệ Luật bắt đầu truyền từ Tịch Hộ, và chính thức bởi người Tây tạng là Klu’i rgyal mtshan (Long Tràng), tiếp tục tồn tại cho đến khi gLang dar-ma diệt pháp, bấy giờ xem tạm đứt, sau đó được nối lại với dGongs-pa Rab-gsal (Tư Minh).

Sau khi Khri-srong lde-btsan chết, các Tạng vương kế vị, con ông là Khri-lde srong-btsan, và cháu ông là Khri-gtsug-lde-btsan thường được biết là Ral-pa-can, tiếp tục phát huy Phật giáo.[28] Triều Tạng vương Ral-pa-can được xem là thời cực thịnh trong lịch sử Tây tạng, về mặt quân sự cũng như sự phát triển của Phật giáo.

Ông lên ngôi khoảng năm 815, cho đến năm 838 thì mất. Truyền thuyết nói ông bị trượt té rồi chết. Thuyết khác nói ông chết vì bệnh. Thuyết khác nữa nói ông bị hai người thân Bon giáo giết. Sau khi ông chết, em ông gLang dar-ma được tôn lên ngôi vua. Lại cũng theo truyền thuyết, trong hai năm đầu trị vì, gLang dar-ma tỏ ra vẫn tôn sùng Phật giáo, nhưng sau đó chịu ảnh hưởng của Tể tướng dBas rGyal-to-re bèn cải theo Bon giáo và bắt đầu chính sách đàn áp Phật giáo khốc liệt.

rGyal-to-re nguyên là đại thần dưới triều Ral-pa-can. Tể tướng lúc bấy giờ là Đại sư Bran-ka dPal gyi Yon tan (Cát Tường Công Đức), nhưng bị rGyal-to-re vu khống là thông gian với một bà phi của Ral-pa-can nên bị hành quyết. rGyal-to-re nắm quyền từ đó.

gLang dar-ma chỉ ở ngôi được mấy năm, đến 841 thì bị một nhà sư tên là Lha-lung dPal-gyi rdo-rje (Cát Tường Kim Cang) ám sát.

Dưới chính sách bài Phật, các tự viện bị đóng cửa, sư tăng bị giết hoặc bắt buộc hoàn tục. Lúc bấy giờ chỉ có được ba vị sư trốn thoát. Đó là dMar Sha-kya, gYo dGe-‘byung và gTsang Rab-gsal. Ba người này lúc bấy giờ đang tu thiền (sgom grwa) trên núi dPal Chu-bo-ri tình cờ gặp một vị sư tên là Khyi-ra-byed-pa, mới hay rằng vua mới gLang dar-ma đang thi hành chính sách diệt Phật giáo khốc liệt; họ bèn chất các bộ Luật (‘dul ba) và A-tì-đàm (mngon pa) lên một con lừa rồi chạy trốn, ngày ẩn, đêm đi, qua Thượng mNga-ris, không ở lại đây được, bèn đi cho đến Hor gyi yul, thuộc vùng Tân cương ngày nay. Lần hồi họ đi đến vùng Amdo[29] , Đông bắc Tây tạng, gần giáp thượng nguồn sông Hoàng hà.

Một thời gian sau, họ di chuyển đến tỉnh Khams (Khang tạng) trong vùng phía Đông nam Tây tạng, tức phía Tây bắc Trung quốc, trú tại chùa Dan-tig, thuộc huyện Hóa long tỉnh Thanh hải Trung quốc ngày nay. Tại đây họ độ một người địa phương cho xuất gia, nhưng vì không hội đủ túc số Tăng nên chỉ được cho thọ Sa-di với pháp danh là dGe-ba Rab-gsal (Thiện Minh). Không bao lâu dPal gyi rDo-rjes sau khi ám sát gLang dar-ma bỏ trốn đến trú gần đó. Ba vị sư này bèn thỉnh ông làm Hòa thượng Đường đầu để truyền giới Cụ túc cho dGe-ba Rab-gsal, nhưng ông từ chối vì tự nói không còn đủ tư cách, có lẽ ý nói đã phạm trọng cấm sát giới. Thế nhưng dPal rDo- rjes cũng vận động được hai vị sư người Hán tham dự truyền giới.[30] Bấy giờ đàn truyền giới Cụ túc được tổ chức với “Ngũ nhân Tăng”, hội đủ Tăng số 5 Bí-sô hợp cách. Sa-di dGe-ba Rab gsal được thọ Cụ túc và có pháp hiệu là dGongs-pa Rab-gsal (Ý Minh). Mọi người tôn kính ông, tôn xưng là bLa chen (Đại Lạt-ma).

Tăng-già Tây tạng bắt đầu được khôi phục. Thể hệ Tăng-già được lập ở đây được gọi là hệ sMad-‘dul, Luật vùng Hạ, hay Đông luật, do hình thành trong vùng Đông nam Tây tạng.

Hai tỳ-kheo người Hán này có lẽ xuất thân từ truyền thống Dharmagupta, theo luật Tứ phần. Nguyên lai, theo lệnh vua Đường Trung tông, kể từ năm Cảnh long thứ 3 (709 Tl), tất cả những người xuất gia trong đất Hán chỉ hành theo một hệ Luật duy nhất là hệ Tứ phần của Đàm-vô-đức. Thế nhưng, trong trường hợp ở đây, điều được thấy rõ là Luật học tuy có phân biệt bộ phái, nhưng sự thọ giới không hạn chế theo bộ phái riêng biệt.

Tin đồn Tăng-già đã được phục hoạt ở Khang tạng dần dần truyền đến các tỉnh Trung bộ Vệ tạng và Tàng tạng (dBus gTsang), một phái đoàn khoảng 10 người, dẫn đầu bởi Klu-mes Tshul-khrims Shes-rab (Giới Huệ) đến cầu thọ Cụ túc. gTsang Rab-gsal (Tịnh Minh) được thỉnh cầu làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới, nhưng ông từ chối vì tuổi quá già, và đề nghị dGongs-pa Rab-gsal (Ý Minh). Ông này cũng từ chối vì tự thấy chưa đủ hạ lạp, vì phải trên 10 năm thọ Cụ túc. Thế nhưng, vì trường hợp đặc biệt, theo đề nghị của gTsang Rab-gsal, được chuẩn nhận Hòa thượng theo quy tắc “tác pháp Thượng tọa”, nghĩa là Tăng cử hành pháp Yết-ma chuẩn nhận tỳ-kheo chưa đủ hạ lạp lên hàng Thượng tọa. Sau một thời gian học tập và hành trì luật đầy đủ theo quy định của Luật, nhóm người này bắt đầu mở rộng cộng đồng Tăng lữ Tây tạng trong nhiều địa phương.

Nhóm mười người Vệ-Tạng (dbUs gTsang gi mi bcu) này, dẫn đầu bởi Klu-mes, sau khi đắc giới ở Khams, họ quay về Vệ tạng truyền dạy Luật, lập thành hệ Đông luật (sMad ‘dul) cho tới khi Dharmapāla và các đệ tử vào Tây tạng lập thành hệ Tây luật (sTod ‘dul). Toàn bộ lịch sử truyền Luật, trong khoảng 465 năm, cho đến thời thiện hữu Gra-ba, năm Bính thân (1476) được ghi chép chi tiết bởi Thanh sử.[31]

4. Dharmapāla: Tây Luật

Sau khi gLang dar-ma bị ám sát, tình hình chính trị xã hội trở nên hỗn loạn, đế quốc Tây tạng bắt đầu suy yếu, mất dần lãnh thổ lấn chiếm trước đây. Cuối cùng, cho đến khoảng 929, Tây tạng bị chia đôi, một phần do một chính quyền yếu kém ngự trị ở Trung bộ, phần khác dưới triều đại mNga’ ris, thiết lập bởi Nyi-ma mgon (Nhật Hộ), tằng tôn của gLang dar-ma, có thủ đô là Gu-ge. Triều đại này bắt đầu khôi phục Phật giáo. Truyền đến vua Ye-shes ‘Öd (Trí Tuệ Quang) thì Phật giáo Tây tạng hưng thịnh trở lại.

Ye-shes ‘Öd là cháu năm đời của gLang dar-ma, nguyên là sư, sau đó làm vua và vẫn làm sư, trở thành vị “vua sư” đầu tiên của Tây tạng. Chính Ye-shes ‘Öd thỉnh cầu Atisha đến truyền giáo, và giai đoạn thứ hai trong lịch sử Phật giáo Tây tạng bắt đầu.

Theo tường thuật của Bu-ston, bTsan-po Khor-de về sau truyền ngôi lại cho em là Srong nge rồi xuất gia, pháp hiệu là Lha bla-ma Ye-shes ‘Öd. Ông chỉ tin pháp tướng học (mtshan-nyis pa) và tỏ ra hoài nghi Chân ngôn tông, vì trong đó chỉ bày nhiều chuyện phóng túng tính dục là dấu hiệu bại hoại của Phật pháp, do đó phái khiển 21 thanh niên sang Ấn-độ cầu học Phật pháp. Trong số này, chỉ còn hai người sống sót là Rin chen Bzang po và Legs pa‘i Shes, tiếp tục học ở Kashimr, và họ thỉnh cầu được nhiều học giả Phật học sang Tây tạng. Sau đó, thỉnh được Dharmapāla, từ Đông Ấn, bấy giờ đang du hành tại Nepal, sang Tây tạng chỉnh đốn lại quy củ Tăng-già. Dharmapāla cùng với ba vị đệ tử, là Sādhupāla, Guṇapāla và Prajñāpāla, đến vương quốc mNga’ ris. Tại đây, cùng với một số vị từ Ấn sang, đàn truyền thọ cụ túc được lập, chính thức truyền giới theo hệ Luật Căn bản Hữu bộ. Đối lại với hệ Đông Luật (sMad ‘dul) được khôi phục với dGongs Rab-gsal, hệ truyền bởi Dharmapāla được gọi là Tây luật (sTod ‘dul). Hệ này chính thức, và là hệ Luật duy nhất tồn tại cho đến ngày nay.

Tổng quát mà nói, lịch sử truyền thừa Luật tại Tây tạng được ghi nhận bởi Thanh sử nối tiếp qua ba dòng chính như sau, nếu kể theo gốc truyền từ Ấn-độ, và tất cả đều có cội ngồn từ Long Thọ:
Dòng thứ nhất: Ācārya Nāgārjuna (Long Thọ), Bhavya (Thanh Biện), Śrīgupta (dPal-sbas, Cát Tường Mật), Jñanagarbha (Ye-shes snying-po, Trí Tạng), Śāntarakṣita (Zhi-ba-‘tsho, Tịch Hộ), và sau đó truyền xuống đến sBa Ratna. Dòng này được kế thừa ở Khams (Khang Tạng) bởi bla chen dGongs-pa rab-gsal. Ở dbU và gTsang (Vệ Tạng và Tàng Tạng) được truyền qua kLu-mes.

Dòng thứ hai: truyền bởi rGyal-ba’i she-rab ở Zhang-zhung, đệ tử của Tam Hộ, ba vị đệ tử của Paṇḍita Dharmapāla mà phần cuối của danh hiệu đều gọi là Pāla. Dòng này được gọi là dòng Tây Luật (sTod-‘dul-ba).

Dòng thứ ba: đệ tử của Nāgārjuna-Guṇamati, Ratnamitra, Śrī Dharmapāla, Guṇasāgara, Dharmamāla, Ākaragupta, Śākyaśrībhadra. Śākyaśrībhara từ Ấn sang truyền cho nhiều người Tây tạng, truyền xuống về sau đến Tsong-kha-pa.

Thanh sử tường trình chi tiết dòng này, từ truyện tích Long Thọ xuất hiện ở đời, xuất gia làm đệ tử của Rāhulabhadra;[32] cuối cùng truyền vào Tây tạng, như đã được Phật thọ ký trong kinh Mañjuśrīmūlatantra (Văn-thù căn bản nghi quỹ).[33]

Truyện Śākyaśrī (bhadra) được kể trong chương cuối (chương XV) của Thanh sử. Sư gốc Kashmir, sinh khoảng 1127 Tl, đến Tây tạng khoảng năm 1204, trú lại đây khoảng 10 năm, rồi trở về Kashmir và tịch ở đó vào tuổi 99, khoảng năm 1225 Tl[34]

5. Bí-sô-ni

Khởi thủy, khi Tịch Hộ (Śāntarakṣita) lập đàn truyền cụ túc đầu tiên, vì chỉ có các bí-sô mới có khả năng đi từ Kashmir sang Tây tạng, chỉ được truyền cho nam giới, vì không hiện diện Bí-sô-ni nào. Trong biểu tấu của Hòa thượng Ma-ha-diễn gởi vua Khri-srong lde-btsan như được ghi chép trong Đốn ngộ Đại thừa chánh lý, bà di mẫu cùng với thứ phi của vua “gọt bỏ mái tóc xanh” mà xuất gia. Trong số gọi là “Tăng Ni người Hán” bị dẫn độ về Lhasa như là “tù binh” (phu lỗ), không rõ có hiện diện các tỳ-kheo-ni hay không. Sau hòa ước “Thanh thủy hội minh”, một số được trả về bản quốc Trung hoa, có thể còn một số lưu trú lại Tây tạng. [35] Nhưng không thấy đề cập gì đến sự hiện diện của các tỳ-kheo-ni người Hán hay Tạng vào lúc bấy giờ. Ngay tại Trung quốc, sau khi Tăng tỳ-kheo được lập trực tiếp bởi Tăng từ Ấn sang, nữ giới đầu tiên theo lý luận của Tăng Trung quốcgiới thể từ Tỳ-kheo Tăng mà có, do vậy nữ giới được phép thọ cụ túc thành tỳ-kheo-ni. Nhưng về sau, Luật sư Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma) từ Kashmir sang không chấp nhận giải thích Luật này, do đó đã cử người sang Tích lan thỉnh được các Tỳ-kheo-ni vốn theo hệ luật Theravāda, đủ số 10 vị, thành lập giới đàn “nhị bộ Tăng”[36] truyền Cụ túc cho nữ giới. Kashmir là khu vực truyền bá của Luật Hữu bộ, và các Tăng sĩ người Ấn thường xuyên từ đây vào Tạng, khó có thể được chấp nhận làm Tỳ-kheo-ni mà không đủ nghi thức nhị bộ truyền giới.

Vả lại, các Tăng sĩ người Hán theo Thiền tông, với quan điểm “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, chỉ cốt giữ trọn phẩm cách người tu hành mà không câu nệ giới pháp. Vấn đề “đắc giới” hay không, với họ không quan trọng; mặc dù điều này rất quan trọng trong truyền thống Hữu bộ. Các bộ phái khác cũng tương tự. Cho nên, trường hợp có thể xảy ra là các bà Phi Tần cùng với các mệnh phụ của triều vua Khri-srong lde-btsan được nhận là xuất gia mà không có giới đàn “nhị bộ” thọ Cụ túc để thành Tỳ-kheo-ni.

Tuệ Sỹ
03.2016
(Hương Tích Phật Việt)

[1] Tạng: Zhi ba ‘tsho; trong đó, “‘tsho” thường có nghĩa “sinh hoạt” nên về Hoa ngữ có người hiểu là “Tĩnh Mạng” hay “Tịch Mạng”; “‘tsho” cũng có nghĩa là “hộ” như Buddharakṣita (Phật Hộ) dịch là “Sangs-rgyas-‘tsho”, Saṇgharakṣita (Tăng Hộ) dịch là “dGe-‘dun-‘tsho”.

[2] Hai vị kia là Srong-btsan sGam-po (khoảng 569-649 Tl), người đầu tiên thiết lập đế chế Tây tạngchính thức du nhập Phật giáo từ ngã Nepal và Trung quốc. Vị thứ hai, Ral-pa-can (khoảng 806-838 Tl), củng cố sự phát triển của Phật giáo, đã hoàn thiện chế độ phiên dịch Phạn-Tạng với những chuẩn mực hàn lâm cho sự nghiệp phiên dịch, chú sớ, tạo nền tảng cho sự phát triển văn học , tư tưởng của dân tộc Tây tạng.

[3] rGyal rabs gsal ba’i me long (Gương sáng Vương triều), cổ sử Tây tạng, soạn bởi bSod-nams rGyal- mtshan (Phước Tràng, 1312-1375 TL); Hoa dịch bởi Lưu Lập Thiên, Tây tạng vương thống ký, Dân tộc xuất bản xã, Bắc kinh 2000, tr. 116-118.

[4] Kim Thành Công chúa 金城公主 (Tạng: Kim-sheng khong-co, hoặc Gyim-sheng kong-jo), con gái của Tự Ung vương Lý Thủ Lễ, được Đường Trung tông nhận làm con nuôi. Bấy giờ vương hậu ‘Bro-bza’ Khri-ma-lod, bà nội của Tạng vương Khri-lde-gtsug-brtan đảm nhiệm nhiếp chánh khi vua còn nhỏ, do chính sách hòa thân với Đường triều, muốn cưới công chúa Đường triều cho Tạng vương. Có khá nhiều truyền thuyết khác nhau về hôn nhân này, mặc dù Kim Thành công chúa được cống nạp cho Tạng vương là sự kiện lịch sử. Trung tông bèn cống nạp công chúa Kim Thành theo yêu cầu của Tạng vương. (Cf. dBa’ bzhed: The Royl Narrative Concerning the Bringing of the Buddha’s Doctrine to Tibet, transl. by Pasang Wangdu & Hildegard Diemberger, 2000). Truyền thuyết “tranh con” cũng được ghi chép khá nhiều trong cổ sử Tây tạng, như Phật giáo sử (chos ‘byung) của Bu-ston, Ký sự họ Ba (sBa bzhed), Tây tạng vương thống ký (rGyal rabs gsal ba’i me long), Thanh sử (Deb ther sngon po), nhưng các nghiên cứu hiện đại nghi ngờ truyền thuyết này. Cựu Đường thư ghi, Kim Thành Công chúa mất sau ba năm, tin được báo về triều đình, do đó, năm mất xác định là 739. Năm sinh cuta Khri-srong lde-btsan được ghi là 742. Cf. 津曲真一『バシェ』訳註 (2010), 石硕 – 金城公主事迹中一个疑案的研究 (2002).

[5] Cảnh đức Truyền đăng lục, quyển 4, mục lục. Lịch đại pháp bảo ký, T51n2075, tr. 184c17. Trong các sử liệu này không thấy nói đến người Tây Tạng học Thiền với Kim Hòa thượng.

[6] de’i dge ba’i bshes gnyen za hor rgyal po’i bu dge slong shanti ra ksi ta zhes bya ba’i ‘dul skal yin no.Tạng văn, sBa bzhed, nguồn: https://sites.google.com/site/tibetological/sba-bzhed. Cf. sBa bzehd, cổ sử thế kỷ 8, ghi những sự kiện dưới thời vua Khri-srong lde btsan, viết bởi sBa gSal-snang, bản dịch Nhật bởi Shin’ichi Tsumagari,『バシェ』訳註――マシャン・ドムパキェの失脚――津曲真一四天王寺大學紀要第 50 号 (2010年 9月); Deb ther sngon po, sử Tây tạng, viết bởi Gö Lo-tsa-ba gzhon nu dpal, 1392-1481; bản dịch Anh, The Blue Annals, bởi George N. Roerich, 1949, 1966. dBa’ bzhed, trong bản dịch Anh bởi Wangdu & Diemberger, cho một phiên bản khác về vị Kim hòa thượng này.

[7] Lịch đại Pháp bảo ký, quyển 1, T51n2075, tr. 184c17; Cảnh đức Truyền đăng lục, quyển 4, T51n2076, tr. 224c25.

[8] Vương thống ký nói ông lên ngôi lúc mới 8 tuổi.

[9] sans rgyas kyi gsung rab bam po ston zhu’o (sba bzhed, nguồn tư liệu, dẫn trên).

[10] sBa bzhed, dẫn trên: rgya me mgo dang | rgya gar a nan ta dang. Obermiller (History of Buddhism by Bu-ston) đọc là hai vị sư người Hán Me và Go (?). Pháp Tôn đọc theo phiên âm là Mai-ma-quả (Tây tạng tiền hoằng kỳ Phật giáo, Hiện đại Phật giáo học thuật tòng thư, quyển 76, Đài Bắc, 1979, tr. 319).

[11] Mang yul, vùng mNga’ ris hạ, đông nam Tây tạng. Padmasambhava và Śāntarakṣita vào Tạng ngang qua ngõ này.

[12] Danh hiệu mà Bu-ston dùng để gọi Śāntarakṣita.

[13] Dānaśīla (Thí Giới) sau này sẽ là người đứng đầu trong Viện Tịnh giới, phiên dịch Luật tạng. Bảy người theo thuyết này được ghi lại trong Vương thống ký, dẫn trên, tr. 121.

[14] Rāhula ở đây tức là Rāhulabhadra, mà Cát Tạng (Trung quán luận sớ) nói là người đồng thời với Long Thọ. Truyền Tây tạng nêu trên nói là Thầy của Long Thọ. Thuyết khác nói là đồ đệ của Thánh Thiên (Āryadeva).

[15] Xuất Tam tạng ký tập, quyển 12, “Tát-bà-đa bộ ký mục lục tự”, T55n2145, tr. 89a20.

[16] Vương thống ký, dẫn trên, tr. 129-30, gọi đây là cuộc tranh luận giữa ston min pa và tsen min pa (đốn môn phái và tiệm môn phái, đọc theo Tạng âm).

[17] Tác phẩm do đệ tử của Hòa thượng Ma-ha-diễn là Vương Tích viết, được phát hiện tại Đôn hoàng vào năm 1990 bởi Paul Pelliot, nhà khảo cổ học người Pháp. Nguyên văn Hán với hiệu đínhchú giải bởi Nhiêu Tông Hy: Vương Tích Đốn ngộ Đại thừa chánh lý yếu quyết tự thuyết tịnh hiệu ký, Hiện Đại Phật giáo học thuật tòng thư, tập 79, tr. 307-367. Pháp văn, phiên dịchnghiên cứu chi tiết, Le Concile de Lhasa par Paul Demiéville, Presses Universitaires de France.

[18] Bản hiệu ký của Nhiêu Tông Hy, dẫn trên, tr. 334: 我大師密授禪門, 明標法印. 皇后沒盧氏一自虔誠, 劃然開悟, 剃除紺髮, 披掛緇衣朗戒. 珠於情田, 洞禪宗於定水, 雖蓮花不深, 猶未足為喻也. 善能為方便, 化誘生靈, 常為贊普姨母悉囊南氏, 及諸大臣夫人卅餘人說大乘法, 皆一時出家矣, 亦何異波闍波提 為比兵尼之唱首爾.

[19] xem cht. 17 trên.

[20] 皇后沒盧氏. Demiéville cho rằng đây là sự khoa đại cố ý; vì “hoàng hậu” ở Trung quốc chỉ cho vợ chính của Hoàng đế; mà bà Một-lô thị, đồng nhất với phát âm Tạng ngữ là mBro’, chỉ là môt trong những thứ phi của Khỉ-srong lde-btsa.

[21] Tây tạng vương thống ký, Hoa dịch, tr. 122: ‘bro bza’ byang chub sgron.

[22] Nhiêu Tông Hy, dẫn trên, tr. 356.

[23] Các tư liệu liệt kê về sự kiện này, xem Thích Huệ Nghiêm, Trung quốc Thiền tông tại Tây tạng, Chung-Hwa Buddhist Journal, No. 07, (1994), Taipei: The Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies; cht. 54.

[24] Thích Huệ Nghiêm, sách dẫn trên, tr. 227.

[25] Từ năm Thiên bảo thứ 4 (755), khi vua Khri lDe Srong btsan mới lên ngôi (13 tuổi), cho đến Chí đức 1 (763), quân Tây tạng đánh chiếm trước sau 9 châu của Trung quốc. Năm Chí đức 1 (763), quân Tây tạng đánh chiếm kinh đô Trường an trong 15 ngày, đuổi vua Đường Đại tông chạy trốn qua Thiểm tây. Năm sau Tây tạng công hãm Lương châu… Năm 781, Tây tạng chiếm Sa châu. Năm 783, Đường Đức tông phải ký ước, cắt khá nhiều đất nhượng bộ Tây tạng.

[26] Bu-ston, sách đã dẫn trên, tr. 192.

[27] Dẫn theo bản hiệu ký của Nhiêu Tông Hy, dẫn trên.

[28] Vương thống ký nói, con lớn của Khri lDe srong btsan (Sad na legs) rất hâm mộ Phật pháp, xuất gia làm Sa-môn. Dar-ma ưa gây ác sự, không kham làm vua, nên ngôi vua được truyền cho con thứ là Ral pa can. Ông lên ngôi lúc 12 tuổi, sau khi vua cha chết.

[29] Sinh quán của vị Dalai Lama 14 hiện nay.

[30] Hai vị này có tên là Ke-bang và Gyi-bang, theo Bu-ston; Obermiller, dẫn trên. tr. 202.

[31] The Blue Annals (1949), 1996, từ trang 77-101.

[32] La-hầu-la được Cát Tạng nhắc đến trong Trung quán luận sớ, T42n1824, tr. 40c16.

[33] The Blue Annals, dẫn trên, 1996; p. 34-47.

[34] Roerich, dẫn trên, tr. 1062-73

[35] Cựu Đường thư, quyển 196 hạ, “Thổ phồn truyện hạ”: “Năm Kiến trung thứ 3 (782), phóng thích các tướng sĩ và tăng ni, có đến 800 người, bị bắt làm tù binh trước đó…” Đây có thể là các “tù binh” (phu lỗ) bị bắt trong trận tấn công chiếm Trường an, đuổi vua Đường Đại tông chạy trốn qua Thiểm tây, trong năm 763. Sau đó quân Tây tạng rút lui khỏi Trường an, tấn công các nơi, đánh chiếm rất nhiều châu quận của nhà Đường. Năm Kiến trung thứ 4 (783), Đường Đức tông nối ngôi sau khi Đại tông mất, bắt buộc phải ký hòa ước “Thanh thủy hội minh” và nhượng một phần đất đã bị Tây tạng chiếm.

[36] “Nhị bộ Tăng”: Tỳ-kheo Tăng túc số 10 vị, Tỳ-kheo-ni Tăng túc số 10 vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10333)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9949)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10334)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34403)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9631)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11091)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9792)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9175)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20436)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8747)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8859)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12105)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9969)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9890)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10608)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10921)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9332)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9187)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9308)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10453)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16602)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9532)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10181)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9446)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9441)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8617)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8348)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10172)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9386)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8335)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8519)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7967)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8931)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8616)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30399)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9266)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9628)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9506)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9499)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9066)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28199)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23694)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9636)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30885)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27110)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32698)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27744)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12463)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58658)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9388)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9554)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28141)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23269)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant