Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

16 Tháng Ba 201720:53(Xem: 10331)
Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

 

HT Thich Nguyen Sieu
Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Ảnh: Sen Trắng)


Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt. Sự hiện hữu đó đã gây giống nẩy mầm từ khi các Thiền sư đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Lạc Việt, hay từ thời Trung tâm Luy Lâu được khởi xướng. Xuôi theo dòng lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước ấy Phật Giáo Việt Nam đã không ngừng tài bồi, kiện toàn và phát huy những nét cao đẹp, trong sáng tinh ba của đất nước dân tộc. Lý tưởng giác ngộ giải thoát của Đạo pháp được hưng khởi, giá trị của lòng Từ Bi, thương người cứu vật, tinh thần trong sáng của trí tuệ vượt thoát được nêu cao và hoằng dương một cách sâu rộng đến mỗi người, mỗi nhà hay phổ cập chung cho cộng đồng xã hội. Trong công cuộc “Hoằng Pháp Thị Gia Vụ, Lợi Sanh Vi Sự Nghiệp” – Hoằng pháp là việc nhà, lợi sanh làm sự nghiệp – đó có tấm lòng trung kiên với Đạo, có đôi tay cần mẫn hộ trì Phật pháp của người Cư sỹ Phật tử các giới.

Nếu nói rằng, từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế đã có bao nhiêu vị Đại thí chủ, bao nhiêu thiện nam tín nữ Phật tử đã phát tâm hộ trì Tam Bảo, bất luận là Vua chúa, Trưởng giả, hay thần dân …. xây dựng tinh xá, phát tâm tứ sự cúng dường, học hỏi giáo pháp và ngay cả tinh thần tu tậpchứng đắc quả thánh đương thời cho đến hôm nay thì lịch sử Phật Giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua cũng đã có rất nhiều các cư sỹ Phật tử hy hiến đời mình cho Đạo pháp, bảo vệ ngôi nhà Phật Giáo được vững bền và thăng tiến cùng góp mặt chung với Phật Giáo thế giới.

Người cư sỹ Phật tử đã giữ một vai trò quan trọng trên dòng lịch sử Phật Giáo nước nhà, và dòng lịch sử Phật Giáo đó đã tạo thành niềm tin Đạo pháp truyền thống, tiếp nối nhau từ đời này sang đời khác bất tuyệt. Và cũng chính truyền thống Phật Giáo đó đã giữ gìn người cư sỹ Phật tử sống trọn vẹn trong niềm tin Tam Bảo.

Thế nhưng hôm nay, Phật Giáo Việt Nam đã được hoằng truyền qua các quốc gia trên thế giớichúng ta gọi là Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại, không phân biệt Mỹ Châu, Úc Châu v.v…. thì người cư sỹ Phật tử có cái nhìn tổng quan Phật Giáo Hải Ngoại và đặt mình đúng vị trí trong vai trò hộ pháp

1. Khẳng Định Tín Tâm Đối Với Tam Bảo
Khi chúng ta còn sống nơi quê nhà, theo nề nếp tập tục, theo giáo dục lễ nghi và có thể nói là theo truyền thống lâu đời gia đình theo đạo Phật thì con cháu cứ như vậy mà thừa truyền tiếp nối Đạo pháp trong gia đình và ít có ai đổi đạo. Đó là niềm tin cố hữu của người Phật tử Việt Nam tự nghìn xưa. Nhưng hôm nay, chúng ta là người Phật tử Việt Nam sống nơi hải ngoại – một môi trường mới, một sinh hoạt mới, một văn hóa, một quan niệm mới – chúng ta có còn giữ được niềm tin truyền thống, hay chúng ta phải thấy bằng như thật rằng : Tam Bảo là 3 ngôi báu, cao quý trong thế giankiên định tín tâm nơi 3 ngôi báu ấy để không bị lung lạc hay cuốn hút theo những hình ảnh, màu sắc phù phiếm của các ngoại lực và rồi phản bội lại lý tưởng cao đẹp lâu đời của cha ông.

Tín tâm Tam Bảobước đầu học Phật của người cư sỹ Phật tử. Nếu chúng ta không có tín tâm kiên cố đối với Tam Bảo thì dù cho chúng ta có sưu tra, nghiên cứu Phật pháp giỏi đến đâu cũng không thể gọi là Phật tử và sẽ bị thối tâm khi niềm tin không định hướng.

2. Thích Nghi Với Môi Trường Hiện Sống Mà Tùy Duyên Hộ Pháp
Con người sống trong một xã hội mà nhu cầu đời sống quá cao, thời gian không đủ để phân bố công việc, như thế giới Tây phương ngày nay. Một người có thể làm Hai công việc toàn thời một ngày thì chắc hẳn không còn thời gian cho chính mình để suy tư nghĩ ngợi về đời sống tâm linh. Vì nhu cầu đời sống vật chất, vì sự ràng buộc công việc sở làm mà chúng ta có thể lãng quên hay đánh mất nét đẹp cao quý của tinh thần. Nhưng, nơi đây chúng ta có thể đem những bài học uyên áo giá trị của thế giới Đông phương, áp dụng ngay vào đời sống bận rộn của thế giới Tây phương, nhằm giải tỏa phần nào áp suất những lo âu của cuộc sống cá nhân để tránh bị cuốn hút bởi những nhu cầu vật chất quá cao.

Đó chính là ý thức được giá trị đích thực của sự sống an lành, của niềm bình yên trong tâm hồn, của sự thanh thản trong bận rộn, của sự tri túc trong ý nghĩa thường lạc tự thân. Tinh thần của đạo Phậttùy duyên để thích nghi với hoàn cảnh, môi trường mà không bị chướng ngại khi mình hiện hữu. Tinh thần của đạo Phật là hòa tan, là uyển chuyển – ở bầu thì tròn, ở ống thì dài – là dung hợp như nước với sữa không có sự ngăn chia.

Người Phật tử có được cái nhìn và một nhân sinh quan như vậy, thì đích thực đã kiện toàn cho sự thích nghi môi trường sống, để từ đó mà tùy duyên hộ trì Tam Bảo trong ý thức tự tồn và nhiệt tâm phụng sự.

3. Phát Huy Tinh Thần Tu Học Phật Pháp Qua Các Phương Tiện:
a. Tham gia các khóa tu học được tổ chức tại các Tự Viện.
b. Nghe băng thuyết giảng.
c. Học Phật pháp trên Internet – Paltalk.

Tham học Phật phápbước đầu của người tu Phật. Người Phật tử thông hiểu Phật pháp rồi tu tập Phật pháp tức là làu thông pháp học rồi tiến tới pháp hành thì sự tu tập mới đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Do vậy, sự nghiên tầm giáo điểnnăng lực tài bồi, là tiềm năng đẩy người Phật tử đi xa hơn trên con đường thể nghiệm tinh thần giác ngộ. Có thâm hiểu giáo lý thì mới thâm tín Tam Bảo, mà có thâm tín Tam Bảo thì mới phát huy được những giá trị thù thắng Phật Ngôn.

Người Phật tử có thấm được hương vị giải thoát của giáo pháp thì mới giữ được lòng trung kiên đối với Đạo. Vì giáo pháp là chiếc bè đưa người qua sông, là hóa thành để chúng ta dừng chân trên con đường dài từ phàm tới thánh, là phương tiện thiện xảo đưa chúng ta tới cứu cánh của thành Niết bàn rốt ráo, hay là những gì đem lại sự lợi ích an vui cho một đời sống thường nhật. Là chất liệu xây dựng mái nhà hạnh phúc chân thật của gia đình. Là ý niệm từ hòa tĩnh lặng trong tận cùng thâm tâm của người học Phật. Vậy sự phát huy tinh thần tu học Phật pháp là điều thiết yếu, là mối quan tâm hàng đầu, là trách vụ chung của mọi người Phật tử chúng ta. Trong những điều kiện khả thể đó, chúng ta có thể:

a. Tham Gia Các Khóa Tu Học Được Tổ Chức Tại Các Tự Viện
Trong quá khứ đã có các khóa tu học Phật pháp được tổ chức tại các tiểu bang hay các Châu. Số lượng Phật tử tham gia tu học rất đáng kể. Trong những khóa tu học này, chúng ta thấy tinh thần tu học Phật pháp của Phật tử rất cao và rất chân thành để nghe giáo pháp. Do vậy, các khóa tu học Phật pháp tổ chức tại các Tự viện tại địa phương để cho các Phật tử được thuận tiện tham gia mà không phải mất nhiều thời gian di chuyển. Từ đó người Phật tử được gần gũi với đạo tràng, với Chùa Viện mà thể hiện tính chất bất khả phân, cũng như có được tài sản giáo pháp cho công trình khai triển đời sống tâm linh ngày thêm hoàn thiện.

b. Nghe Băng Thuyết Pháp
Trở về đôi mươi thập niên trước, chúng ta có bao giờ thấy các bậc Tôn túc thuyết giảng và được ghi âm, hay có những bộ kinh được đọc và thâu lại để phân phát cho các Phật tử nghe? Chắc hẳn là không. Nhưng, ngày nay việc thu băng thuyết pháp đã được phổ biến rất rộng rãi trong giới cư sỹ Phật tử. Hầu hết các buổi thuyết giảng, Phật tử đều có băng ghi riêng và sau đó về nhà nghe lại, truyền bá đến bạn bè thân quen. Đây là cách tham học Phật pháp rất tiện lợi cho tất cả mọi giới, vì có thể nghe thuyết giảng ở nhiều nơi, nhiều chỗ : trong lúc lái xe, khi làm việc trong công sở, hay khi nấu ăn dọn dẹp nhà cửa …. thường xuyên nghe thuyết giảng bằng cách này, lâu ngày chầy tháng, tâm hồn người Phật tử được thấm đậm hương vị giáo pháp và thuần hậu trong suối nguồn tĩnh lặng.

c. Hệ Thống Internet – Paltalk
Đây là phương tiện của kỷ nguyên khoa học tiến bộ, rất thích hợp với giới trẻ, và cũng là phương tiện truyền thông nhanh nhất.

Qua những kinh nghiệm thuyết giảng trên hệ thống Internet, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều Phật tử thuần thành, rất kính trọng giáo pháp và tha thiết muốn nghe lời Phật dạy. Khi giảng trên Internet, không riêng gì Phật tử Hoa Kỳ mà khắp thế giới đều có thể nghe được.

Chúng tôi đã nhiều lần được tiếp xúc với các anh chị em trẻ, họ rất nhiệt tình và chân thành trong công việc truyền bá Phật pháp trên Internet. Những người bạn trẻ này với kiến thức khoa học kỹ thuật sẵn có, họ có thừa khả năng hoạt dụng Phật pháp phổ biến rộng rãi đến mọi người nếu chúng ta cùng biết cách cộng tác làm việc.

Sự tiến bộ về khoa học truyền thông ngày nay đã đưa mọi người trên thế giới gần lại với nhau hơn, dễ cảm thông hiểu biết nhau hơn, và trao đổi với nhau những điều cần thiết vượt khỏi giá trị thời gian của nhiều thập niên trước. Vậy thì, với những phương tiện truyền thông thuận lợi như thế, chúng ta có thể dễ dàng hơn trong công việc hoằng truyền Phật pháp. Chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu phương tiện kỹ thuật và cập nhật hóa thường xuyên theo đà tiến bộ của nền khoa học hiện đại để khỏi bị lùi dần lạc hậu. Nhất là phổ biến rộng rãi tư tưởng siêu phàm, thanh thoát giác ngộ của Đức Thế Tôn đến thế giới Tây phương.

4. Các Tự Viện Tại Địa Phương Là Ngôi Nhà (Tâm Linh) Phật Pháp Của Chính Mình:
Một ngôi chùa nhỏ có thời khóa tụng kinh thường nhật, thuyết giảng định kỳ, niệm Phật công cứ, thọ bát quan trai đúng ngày trong tháng, vẫn có Phật tử tham gia tu học các thời khóa. Dẫu biết rằng có thể không được đông đảo, nhưng với số lượng người cố định, tham gia sinh hoạt đều đặn, chừng mực, thì cũng đủ để thấy rằng người Phật tử đã tự cho rằng ngôi chùa nhỏ tại làng mình là ngôi nhà tâm linh chung cho những người cùng xóm, hay trong cùng một khu vực, thành phố. Tâm tình của người Phật tử được thể hiện qua rổ khoai đầu mùa đem cúng chùa; Chục cam mới hái trong vườn đem dâng cúng Phật, hay đĩa rau lang mới luộc vội bưng qua mời Thầy trụ trì; quả cà, trái ớt đều tưởng nghĩ đến chùa, sốt sắng không quên. Ân nghĩa là nói theo tình đời, còn công đức là nói theo tình đạo. Một tấm lòng đơn sơ cũng đủ nói lên bao nhiêu phước đức đó. Một ngôi chùa nhỏ tại thôn xóm, cách xa thành thị mà duy trì được phải do sự bao dung ấp ủ bằng tấm lòng son của những người Phật tử này. Sự hiểu biết về Phật pháp của họ rất giản dị, mộc mạc : “để đức cho con cháu về sau” bằng tâm tình thuần hậu, đơn sơ, nhưng rất trung kiên vì ngôi chùa làng cũng được xem như ngôi nhà “tinh thần” chung cho xóm làng. Ngôi chùa đó có từ bao đời, dường như không ai để ý, chỉ biết lớn lên đã thấy sự hiện diện của chùa. Mái chùa đó đã che chở, dìu dắt đời sống tâm linh của nhiều đời cha ông của họ cho đến hôm nay và còn nhiều đời con cháu sau này. Cứ thế, người Phật tử mặc nhiên thấy mình có bổn phận trông coi, thăm viếng; sớm hương khói cúng Phật, chiều đánh chuông công phu bái sám xem như là công việc gia đình. Ấy chính là tinh thần hộ pháp, được hòa quyện trong tâm tư người Phật tử thân thương qua bao thế cuộc thăng trầm, thịnh suy, thất đắc. Nhưng niềm tin với ngôi chùa làng được gắn liền, bất di bất dịch, từ đời nọ sang đời kia.

5. Gây Ý Thức Và Tạo Dựng Niềm Tin Phật Cho Con Em – Thế Hệ Kế Thừa:
Con em của chúng ta được sinh ra và trưởng thành trong nền văn hóa Tây phương, hấp thụhọc hỏi phong tục tập quán Âu Tây từ người bản xứ. Do vậy, sự hiểu biết về cội nguồn, quê hương dân tộc của các thế hệ trẻ này rất là hạn hẹp nếu không được các bậc phụ huynh gia tâm chăm sóc.

Vì nhu cầu đời sống, nhiều bậc phụ huynh cũng tất bật với công việc không đủ thời giờ chăm sóc dạy dỗ con cái. Đây cũng là một trong những lý do, các em đánh mất tình cảm gia đình, quên dần cội nguồn dân tộc. Lâu ngày chầy tháng, khó lòng uốn nắn, giảng dạy các em ý thức về nguồn, gần gũi với cộng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng chưa tuyệt vọng vì cũng có nhiều gia đình vẫn giữ được kỷ cương giềng mối. Là một bậc phụ huynh Phật tử, chúng ta lại càng gia tâm giáo huấn con em hơn nữa, hướng dẫn và gây ý thức cho con em chúng taniềm tin Phật pháp. Tạo điều kiện thuận tiện cho những thế hệ sau này gần gũi với ngôi Tam Bảo. Tập làm Phật sự nơi các Tự viện, để quen dần với không khí nhà chùa mà không cảm thấy xa lạ, ngại ngùng khi hữu sự.

Chúng ta có nhiều phương cách gây ý thức và tạo niềm tin cho con em Phật tử như sinh hoạt Gia Đình Phật tử, dẫn con em đi chùa tụng kinh niệm Phật, tham dự các khóa lễ, tham dự các khóa tu học Phật pháp cuối tuần, tìm đưa cho các em đọc những kinh sách song ngữ… để từ đó, gieo vào tâm thức các em, những chủng tử Phật pháp để ý thức Phật pháp được nẩy nở phong phú trong tâm tư các em. Có được như vậy, thì thế hệ mai sau mới hy vọng tiếp tục hộ trì Phật pháp. Hơn thế nữa, các bậc phụ huynh phải khuyến tấn, khích lệ con em mình xuất gia. Khi đề cập đến vấn đề này có nhiều người sẽ cười và bảo: “Xứ Mỹ này khó có người đi tu.” Hay cha mẹ thì trả lời: “Tùy nó” hay khi nào “đủ duyên”. Đây là những lý luận để đưa đến kết quả là hơn 2 thập niên qua ở hải ngoại, có bao nhiêu phần trăm giới trẻ đi tu? Và Giáo Hội đã đào tạo được bao nhiêu Tăng tài để tiếp nối giềng mối Đạo pháp? Đây cũng có thể là một vấn đề lớn mà chúng ta không thể không quan tâm.

6. Quan Hệ Mật Thiết Giữa Người Tu Sỹ Xuất Gia Và Người Cư Sỹ Tại Gia
Thời Đức Phật còn tại thế, người cư sỹ Phật tử luôn gần gũi với Đức Thế Tôn, cũng như hàng Thánh Chúng. Sự gần gũi này đúng theo tinh thầný nghĩa Ưu Bà TắcƯu Bà Di. Một nam cư sỹ gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Người nữ cư sỹ Phật tử gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Đó là ý nghĩa cao đẹp và đạo tình thuần hậu của người cư sỹ Phật tử được nuôi dưỡng trưởng thành trong ngôi nhà Phật pháp. Đời sống của người cư sỹ Phật tử không thể tách khỏi chốn Chùa viện, và cũng không thể phân ly với đời sống của chư Tăng. Không khí Chùa viện được sung túc là nhờ bổn đạo Phật tử, khách thập phương lui tới thường xuyên, cúng dường, phát tâm hộ pháp. Từ đó người Phật tử mới cảm thấy có nhu cầu tham dự tu học, lễ lạc, chư Tăng trau dồi kiến thức Phật học để thuyết pháp giảng kinh.

Người cư sỹ Phật tử phải quan hoài đến vị Thầy Bổn Sư của mình, để thể hiện tấm lòng của người đệ tử, biết cung kính, tôn trọng nhớ ơn người hóa độ. Và ngược lại, vị Thầy đã truyền trao giáo pháp, đã thâu nhận đệ tử thì cũng phải có lòng thương tưởng mà khuyến tu, trợ duyên để cho người đệ tử tại gia đó không thối tâm hộ pháp mà luôn luôn tăng tiến trên con đường phụng hành Phật đạo. Hai nếp sống, hai mối tương quan giữa đạo và đời, chẳng thể phân ly.

Đạo Phật có mặt trong thế gian và từ nơi thế gian tu tập để được giác ngộ giải thoát. Phật pháp không thể xa rời khỏi thế gian mà có. Nếu đi tìm giác ngộ giải thoát ngoài thế gian thì giống như đi tìm lông rùa sừng thỏ. Đạo Phật hiện hữu với đời là vì con người, cho con người hay của con người. Con người vì cầu tiến trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà con gnười thừa tự giáo pháp để làm nhơn duyên hoán chuyển địa vị phàm phu thành Thánh giả. Đời sống của tục đế được quyện vào lòng chơn đế để được vận dụng mà thành đạt ý vị nhiệm mầu, siêu nhiên, bất nhị.

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14146)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39714)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15313)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13928)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37332)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40061)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14641)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14312)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14831)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19214)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13831)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37260)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12674)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11760)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22545)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12510)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13062)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17267)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33247)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11047)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12455)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11959)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11935)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51264)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30411)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13124)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13331)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30681)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19365)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12478)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11843)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14763)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13194)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30686)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31900)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11782)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11750)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10427)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11563)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9660)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9990)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35401)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10148)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10097)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10046)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9658)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27802)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15496)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13683)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9845)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9693)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18321)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12044)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9572)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9694)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8714)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8916)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11482)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31733)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12335)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8828)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11938)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9668)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9076)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9103)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33245)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8432)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30606)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31227)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37120)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9933)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27098)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8450)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9785)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant