Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Kinh nghiệm cận tử: nấc thang lên trời?

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12822)
20. Kinh nghiệm cận tử: nấc thang lên trời?


Ngày nay ở phương Tây chúng ta đã rất quen thuộc với kinh nghiệm cận tử, cái tên đặt cho một loạt những gì xảy đến cho những người chết hụt , và được họ kể lại sau khi thoát một tai nạn hay một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Kinh nghiệm cận tử này đã được kể khá nhiều, trong tất cả các truyền thống huyền học, bởi các văn sĩ, triết gia thuộc đủ trường phái khác nhau như Platon, Giáo hoàng Gregory, một vài bậc thầy giáo phái Sufisme, Toltoi và Carl Jung. Mẩu chuyện mà tôi thích nhất là mẩu chuyện của một sử gia Anh, thầy tu Bede, đã kể lại vào thế kỷ thứ 8.

Vào thời ấy, một phép lạ đáng chú ý, giống như những phép lạ ngày xưa, đã xảy ra ở Anh quốc. Ðể đánh thức những người đang sống mà tâm hồn đã chết, có một người đã chết trở về lại đời sống trong thân xác cũ của họ và kể nhiều chuyện mà y đã trông thấy. Một vài chuyện trong đấy tôi nghĩ là đáng nói vắn tắt ở đây. Có một gia chủ ở xứ Northumbrian, tên là Cunningham, sống một đời sùng tín. Ông ta ngã bệnh càng ngày càng nặng, cho đến vào đầu một đêm kia, ông chết. Nhưng đến lúc bình minh, ông thình lình sống lại, ngồi dậy trên giường trước nỗi kinh ngạc của mọi người đang khóc xung quanh xác ông. Họ vùng bỏ chạy, chỉ trừ bà vợ, người yêu thương ông hơn ai hết, ở lại bên ông mặc dù bà cũng run lên vì hãi sợ. Ông trấn an bà và bảo : “Ðừng sợ, vì tôi quả thực vừa thoát khỏi nanh vuốt thần chết, và tôi được phép sống lại giữa loài người. Nhưng từ đây tôi không được sống theo thói cũ, và phải có một lối sống hoàn toàn khác hẳn” . Không lâu sau đó, ông từ bỏ tất cả trách nhiệm ở đời và gia nhập tu viện Melrose...

Ông thường kể lại kinh nghiệm ông đã trải qua như sau :

“Một người đẹp trai trong chiếc áo rực rỡ, hướng dẫn tôi, và chúng tôi im lặng đi về hướng dường như là đông-bắc. Khi tiếp tục đi, chúng tôi gặp một thung lũng rộng, sâu, và có độ dài bất tận... Người ấy liền đưa tôi ra khỏi bóng tối, đến một bầu không khí có ánh sáng trong suốt, và khi người ấy dẫn tôi đi trong ánh sáng ấy, tôi thấy trước mặt một bức tường to lớn dường như có chiều cao và chiều dài vô tận. Vì tôi không trông thấy cửa ngõ, cửa sổ hay lối vào nào cả, tôi tự hỏi tại sao chúng tôi đi đến đấy làm gì. Nhưng vừa khi tới nơi, tôi không hiểu tại sao, chúng tôi đã ở trên nóc bức tường ấy. Bên trong có một cánh đồng khoáng đạt và vui vẻ trải ra... Ánh sáng tràn ngập trong đó, còn sáng chói hơn cả ánh mặt trời giữa ngọ...

Người hướng đạo nói : “Nay ngươi phải trở về nhập xác lại và sống giữa loài người một lần nữa, nhưng nếu ngươi cân nhắc hành động một cách cẩn thậnhọc hỏi để giữ cho lời nóitư cách ngươi đều bình dị, có đạo đức, thì khi chết, ngươi cũng sẽ được một căn nhà trong đó và sống giữa những linh hồn hạnh phúc mà ngươi đã thấy. Vì khi ta rời ngươi trong chốc lát là để xem tương lai của ngươi sẽ là gì” . Khi ông ta nói thế, tôi rất miễn cưỡng trở về thân xác, vì tôi đâm ra mê mẩn trước vẻ đẹp và sự vui thú của cái nơi tôi đã thấy và những người trong đó. Nhưng tôi không dám hỏi người hướng đạo tôi, và trong khi ấy, không biết làm thế nào tôi chợt thấy mình sống lại”.

Bede chấm dứt câu chuyện với những lời này :

“Con người của Chúa trời này không kể chuyện này và những điều y đã thấy với những người sống bất cẩn, vô cảm, mà chỉ nói với những người sẵn sàng ghi nhớ những lời của y và tăng thêm sự thánh thiện”.

Kỹ thuật y khoa tân tiến đã đem lại một chiều hướng mới mẻ, hấp dẫn cho tầm mức kinh nghiệm cận tử ; bây giờ nhiều người đã sống lại sau một tai nạn, cơn suy tim hay bệnh nặng, hoặc trong khi giải phẫu, trong cuộc chiến. Kinh nghiệm cận tử đã là đề tài của một số lớn khảo cứu khoa học và tư duy triết học. Theo một cuộc trưng cầu ý kiến của viện Gallup năm 1982, có đến 8 triệu người Mỹ, hay một phần hai mươi dân số, đã có ít nhất một lần suýt chết.

Mặc dù kinh nghiệm cận tử không ai giống ai, cũng như không có hai người cùng có một kinh nghiệm giống nhau về cõi Trung Ấm, tuy thế có một mẫu mực chung về các giai đoạn khác nhau trong kinh nghiệm cận tử, một “kinh nghiệm cốt lõi” xuất hiện :

1- Họ đều cảm thấy một tâm trạng đổi khác, an lạcthoải mái, không đau đớn, hoặc có những cảm thọ về thân, hoặc cảm thấy sợ hãi.

2- Họ có thể để ý đến một âm thanh ào ào hay vù vù, và cảm thấy mình rời khỏi xác. Ðây gọi là “kinh nghiệm thoát xác” : Họ có thể nhìn thấy cơ thể họ từ một điểm ở trên cao ; thị giácthính giác của họ bén nhạy hơn, tâm thức họ sáng suốt và rất nhạy cảm, và họ còn có thể đi xuyên qua vách tường.

3- Họ ý thức đến một thực tại khác, đi vào một bóng tối, trôi nổi trong một không gian có chiều hướng, rồi di chuyển rất nhanh qua một đường hầm.

4- Họ trông thấy một ánh sáng, lúc đầu chỉ là một điểm ở đằng xa, rồi họ bị cuốn hút tới đó và được bao phủ trong ánh sáng và tình yêu thương. Nó được mô tả như ánh sáng chói chang rất đẹp, nhưng không hại mắt nhìn. Vài người kể lại, họ đã gặp “một thực thể thuần là ánh sáng”, một hiện diện bằng quang sắc có vẻ toàn năng mà một số người gọi là Thượng đế hay Chúa Ki-tô, có lòng từ mẫn. Ðôi khi trước hiện diện này, họ có thể chứng kiến toàn cảnh cuộc đời họ diễn lại ; thấy mọi việc họ đã làm lúc sống, cả tốt lẫn xấu. Họ nói chuyện bằng thần cảm với hiện diện ánh sáng ấy, và tự thấy mình ở trong một trạng thái phúc lạc, trong đó mọi khái niệm về thời giankhông gian đều vô nghĩa. Mặc dù kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài một hai phút, nó vẫn là cái gì rất toàn vẹnphong phú.

5- Một vài người thấy một thế giới nội tâm tràn đầy vẻ đẹp, dinh thự, phong cảnh thiên đường, với thiên nhạc, và họ có một cảm giác về nhất thể. Một vài người, dường như rất ít người, báo cáo thấy những hình ảnh ghê rợn của hỏa ngục.

6- Họ có thể đạt đến một biên giới mà họ không thể đi xa hơn; vài người gặp bà con bè bạn đã chết và nói chuyện với họ. Họ quyết định (thường rất miễn cưỡng) hoặc được bảo phải trở về lại thân xác và cuộc đời, đôi khi vì ý thức sứ mệnh và phụng sự, đôi khi vì để lo cho gia quyến, đôi khi chỉ để hoàn tất mục tiêu cuộc đời họ đang bị dang dở.
 
 

*
 
 

Khía cạnh quan trọng nhất của kinh nghiệm cận tử là sự chuyển hóa toàn diện trong sự sống, trong thái độ và trong tương giao của những người đã có kinh nghiệm ấy. Họ có thể không mất nỗi sợ hãi đối với nỗi đau và hấp hối, song chính cái chết thì họ không sợ. Họ trở nên bao dung hơn, đầy tình thương yêu, và quan tâm đến những giá trị tâm linh, đến con đường trí tuệ, và thường họ thiên về đời sống tâm linh nói chung, hơn là quan tâm đến những giáo điều của một tôn giáo.

Thế thì làm sao để giải thích kinh nghiệm cận tử ? Vài người Tây phương đọc Tử Thư Tây Tạng đã so sánh những kinh nghiệm cận tử này với các kinh nghiệm về thân Trung Ấm trong truyền thống Tử Thư. Nhìn qua thì có vẻ tương đồng, nhưng nói chính xác thì những chi tiết của kinh nghiệm cận tử liên hệ như thế nào với giáo lý Bardo ? Tôi nghĩ rằng việc này cần một khảo sát đặc biệt vượt ngoài tầm sách này, nhưng có một số điểm đồng và dị mà ta có thể thấy.
 
 

Bóng tối và đường hầm

Có lẽ bạn cũng nhớ, giai đoạn cuối tiến trình tan rã của Bardo chết là khi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” xuất hiện “như một bầu trời trống trải trùng trong màn đêm tối mịt” . Ở điểm này, giáo lý nói đến một giây phút hỷ lạc hạnh phúc. Một trong những nét chính của kinh nghiệm cận tử là cái cảm tưởng di chuyển “với tốc độ kinh khủng” và “cảm giác vô trọng lực” qua một không gian tối đen, “một màu đen kỳ diệu, thanh bình, toàn triệt”, và đi xuống “một cái hầm đen dài” .

Một phụ nữ kể cho Kenneth Ring :

“Nó giống hệt một khoảng trống thoải mái thanh bình, đến nỗi bạn có thể tiếp tục đi tới. Chỉ toàn là màu đen, không có cảm giác nào cả... như là một đường hầm. Bạn cứ như là trôi giữa hư không”.

Và một bà khác kể :

“Ðiều đầu tiên tôi nhớ được là một tiếng xào xạc kinh khủng... Thực khó thể nói nên lời. Tôi có thể nói là nó như một cơn gió lốc, một trận cuồng phong kéo tôi đi. Và tôi đang được kéo từ một điểm chật hẹp đến một nơi rộng rãi” .

Một phụ nữ kể cho Margot Grey :

“Tôi đang ở một nơi giống như là một khoảng trống ngoài trời. Hoàn toàn tối đen, và tôi cảm thấy đang được lôi kéo về phía cuối một đường hầm. Tôi biết thế vì tôi có thể trông thấy một ánh sáng cuối đường. Tôi đang thẳng đứng và bị kéo về phía lối ra. Tôi biết đấy không phải là mộng mộng mị không xảy ra kiểu đó. Tôi không bao giờ tưởng tượng đó lại là mộng mị”.
 
 

Ánh sáng

Vào lúc chết, Ánh sáng Căn bản hay Linh quang xuất hiện với tất cả vẻ chói lọi quang vinh. Tử Thư Tây Tạng nói : “Hỡi thiện nam/nữ, tự tánh tâm ngươi là ánh sáng và koảng trống bất khả phân, nó trú như một vùng ánh sáng rộng lớn, vượt ngoài sống và chết ; quả thế, đấy là đức Phật với Ánh sáng không thay đổi” .

Melvin Morse, chuyên gia sưu tầm kinh nghiệm cận tử nơi trẻ em, có nhận xét : “Gần hết mọi kinh nghiệm cận tử của trẻ con (và một phần tư kinh nghiệm của người lớn) đều có yếu tố ánh sáng. Tất cả đều báo cáo rằng ánh sang xuất hiệngiai đoạn cuối của kinh nghiệm cận tử, sau khi chúng ta đã có kinh nghiệm thoát xác, hoặc đã đi hết đường hầm” .

Một mô tả hay nhất về sự tiến gần ánh sáng được Margot Grey báo cáo :

Dần dần, bạn nhận ra rằng : rất xa ở đằng xa, một khoảng cách vô lượng, bạn có thể đạt đến cuối đường hầm, vì bạn có thể trông thấy một ánh sáng trắng, nhưng nó quá cách xa, tới độ tôi chỉ có thể so sánh nó như khi nhìn lên bầu trời mà thấy một vì sao duy nhất ở đằng xa. Nhưng bạn phải nhớ rằng mình đang nhìn qua một đường hầm, và ánh sáng ấy sẽ lấp đầy cuối đường hầm. Bạn có thể tập trung trên điểm sáng ấy vì khi bạn ngoi tới trước bạn sẽ gặp nó.

Dần dần, khi bạn du hành về phía điểm sáng ấy ở một tốc độ cực nhanh, ánh sáng càng ngày càng lớn. Toàn thể tiến trình này nhớ lại dường như kéo dài chỉ chừng một phút. Khi bạn từ từ tiến đến ánh sáng cực chói lọi ấy, thì không có cảm giác đường hầm đột ngột chấm dứt, đúng hơn bạn có cảm giác mình tan vào trong ánh sáng ấy. Khi đó, đường hầm đã ở sau bạn, và trước mặt là một ánh sáng màu trắng xanh rực rỡ tuyệt đẹp. Ánh sáng vô cùng rực rỡ hơn cả một ánh sáng sẽ làm lòa mắt bạn, nhưng ánh sáng này tuyệt nhiên không làm hại mắt bạn chút nào.

Nhiều người có kinh nghiệm cận tử đã tả ánh sáng ấy như sau :

Tôi sẽ tả về ánh sáng ấy là - vâng, đấy không phải là ánh sáng, mà là sự vắng mặt của bóng tối, toàn diệnviên mãn... Bạn thường nghĩ, ánh sáng lớn là ánh sáng chiếu trên mọi vật làm nên những cái bóng.v.v... Nhưng ánh sáng này thực sự là vắng mặt của bóng đen. Chúng ta không quen với khái niệm này, vì ta luôn luôn có một cái bóng từ nơi ánh sáng, nếu ánh sáng không bao quanh ta. Nhưng ánh sáng này toàn vẹn, tràn đầy tới nỗi bạn không nhìn vào nó, mà bạn ở trong nó.

Một người kể cho Kenneth Ring : “Nó không sáng. Nó như một ngọn đèn có chụp lại, hay gì ấy. Nhưng đó không phải là loại ánh sáng mà bạn có được từ ngọn đèn. Bạn biết nó ra sao không ? Giống như người nào đã để một cái chụp lên mặt trời. Nó làm cho tôi cảm thấy vô cùng an lạc. Tôi không còn sợ hãi. Mọi sự sẽ không sao cả” .

Một phụ nữ bảo Margot Grey : “Ánh sáng rực rỡ hơn bất cứ gì bạn có thể tưởng tượng nổi. Không có lời nào để mô tả nó. Tôi cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Ðấy là một cảm giác an lành, một cảm giác kỳ diệu. Ánh sáng chói lọi tới nỗi bình thường có thể làm lòa mắt bạn, nhưng sao nó không làm ta đau mắt chút nào” .

Những người khác kể lại, họ không những trông thấy ánh sáng, mà còn có thể nhập vào đó, và kể về cảm giác ấy như sau : “Tôi không có cảm giác mình là cái gì tách biệt với ánh sáng. Tôi chính là ánh sáng, và là một với nó” .

Một phụ nữ đã qua hai cuộc giải phẫu lớn trong trong hai ngày, đã kể cho Margot Grey : “Chỉ có tinh chất của tôi được cảm thấy. Thời gian không còn là cái gì cả, và không gian thì tràn đầy phúc lạc. Tôi được tắm trong ánh sáng rực rỡ và chìm ngập trong hào quang của ánh cầu vồng. Mọi sự đều tan hòa vào nhau. Những âm thanh thuộc về một trật tự khác, hòa điệu, không tên (bây giờ thì tôi gọi là âm nhạc) ”.

Một người đàn ông khác khi đạt đến giai đoạn thể nhập ánh sáng đã tả :

“Loạt biến cố sau đây dường như xảy ra đồng thời, nhưng khi mô tả thì tôi phải làm tuần tự. Tôi có cảm giác về một thực thể thuộc loại nào đó, một năng lực, đúng hơn là một con người, một trí tuệ mà ta có thể nói chuyện với. Về tầm vóc thì “thực thể ấy” chiếm trọn khoảng không gian trước mặt ta, nuốt chửng tất cả mọi sự, bạn cảm thấy bạn cũng được bao bọc trong đó.

Ánh sáng ấy liền nói với bạn, đọc được ngay những làn sóng tư tưởng bạn, không cần ngôn ngữ. Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là “Hãy thư giãn, mọi sự đều tốt đẹp, con không có gì phải sợ hãi”. Tôi liền được hoàn toàn thoải mái. Trong quá khứ nếu một người nào, như một bác sĩ, nói “Không sao, bạn không có gì phải lo sợ, không đau đâu”, thì thường có đau, nên bạn không thể tin được. Nhưng đây lại là cái cảm giác kỳ tuyệt nhất mà tôi từng biết đến, đầy thuần túy là tình yêu. Mọi cảm giác đều toàn hảo. Bạn cảm thấy ấp áp, nhưng không dính gì đến thời tiết cả. Mọi sự ở đấy tuyệt đối sống động và sáng sủa. Cái mà ánh sáng truyền thông cho bạn là một cảm giác về tình yêu chân thật và thuần tịnh. Lần đầu tiên bạn cảm thấy điều ấy. Bạn không thể so sánh nó với tình yêu của vợ con bạn. Tất cả những tình yêu trên thế gian góp lại cũng không sánh được với cảm giác bạn có được từ nơi ánh sáng ấy” .

Một người đàn ông suýt chết đuối vào năm 14 tuổi, đã kể :

“Khi tôi đạt đến nguồn gốc của Ánh sáng, tôi có thể nhìn vào. Tôi không thể nào khởi sự mô tả bằng ngôn ngữ con người những cảm giác mà tôi có về những gì tôi trông thấy. Ðấy là một thế giới vô biên, đầy sự an tĩnh, năng lực, vẻ đẹp và tình yêu. Dường như đời người không quan trọng khi so sánh với cái này. Tuy vậy, “nó” nhấn mạnh tầm quan trọng của đời sống, đồng thời cũng xin cầu cái chết như một phương tiện để đạt đến một đời sống khác tốt đẹp hơn. Ðấy là tất cả vẻ đẹp và ý nghĩa của mọi hiện hữu. Ðó là tất cả năng lực vũ trụ”.

Melvin Morse đã viết rất cảm động về kinh nghiệm cận tử của trẻ em, và kể lại cách chúng mô tả ánh sáng với sự hùng hồn đơn giản : “Cháu có một điều bí mật kỳ diệu để nói với chú. Cháu đã leo lên một cái thang bắc lên thiên đàng” . “Cháu chỉ muốn đi đến Ánh sáng ấy, quên thân thể cháu, quên tất cả mọi sự. Cháu chỉ muốn đạt đến Ánh sáng ấy” . “Có một Ánh sáng thực đẹp trong đó có đủ mọi điều tốt lành. Trong chừng một tuần lễ sau đó, cháu có thể thấy những tia nhỏ của Ánh sáng ấy nơi tất cả mọi sự” . “Khi cháu ra khỏi cơn hôn mê trong bệnh viện, cháu mở mắt và trông thấy những mẩu của Ánh sáng ấy ở khắp nơi. Cháu có thể thấy được mọi sự trong thế giới ăn khớp nhau như thế nào”.
 
 

Ðiểm tương đồng với Trung Ấm tái sanh

Trong kinh nghiệm cận tử, tâm tạm thời thoát khỏi thân xác, và kinh quá một số kinh nghiệm gần giống những gì mà một thân ý sanh trải qua trong cõi Bardo tái sanh.

1- Kinh nghiệm thoát xác

Kinh nghiệm cận tử thường khởi đầu bằng một kinh nghiệm thoát xác : người ta có thể trông thấy thân thể của chính họ, cũng như thấy hoàn cảnh chung quanh. Ðiều này trùng hợp với điều đã được nói trong Tử Thư :

“Tôi nhớ mình tỉnh dậy khỏi hôn mê, rồi trôi giạt và tự thấy mình đã ra khỏi xác, đang lơ lửng trên không nhìn xuống cái thân xác của tôi. Tôi chỉ biết mình có một óc não và đôi mắt, mà không nhớ đã có một xác thân” .

Một người đàn ông đã qua một cơn suy tim kể với Kenneth Ring : “Nó như thể là tôi đang ở trên không trung và chỉ có tâm tôi đang hoạt động. Không có cảm giác cơ thể, cũng như óc não tôi cũng ở trên không. Tôi không có gì ngoài tâm tôi. Mất trọng lượng, tôi không có gì cả” .

2- Ngắm nhìn thân quyến một cách vô vọng

Trong Trung Ấm tái sanh, tôi đã tả rằng những người chết có thể thấy và nghe bà con đang sống của họ, nhưng không thể nào liên lạc được với họ, và điều này làm họ tức tối. Một phụ nữ ở Florida kể cho Michael Sabom, nàng đã nhìn xuống mẹ nàng như thế nào, từ một điểm gần cái trần nhà : “Ðiều to tát nhất tôi nhớ được là tôi cảm thấy vô cùng buồn bã vì không thể làm sao để nói cho họ biết tôi không sao cả”.

Và một phụ nữ khác kể cho Michael Sabom : “Tôi đang ngồi tuốt trên cao nhìn chính tôi đang co giật, còn mẹ tôi và tớ gái thì la lớn lên vì họ tưởng tôi đã chết. Tôi thương hại cho họ... Một nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi cảm thấy mình đã tự do ở trên cao ấy, và không lý gì để đau khổ” .

3- Thân thể toàn vẹn, Di độngSáng suốt

Trong Tử Thư Tây Tạng, thân ý sanh ở trong Trung Ấm tái sanh được mô tả là “như một thân thể của thời đại hoàng kim” , và có năng lực di độngsáng suốt phi thường. Kinh nghiệm cận tử cũng thấy rằng hình dạng mà họ có là toàn vẹn và ở độ tuổi thanh xuân. “Tôi đang trôi nổi, và tôi là một người trẻ hơn rất nhiều... Cái cảm tưởng tôi lúc ấy là tôi có thể nhìn thấy chính mình qua một phản chiếu hay qua một cái gì đó mà làm cho tôi trẻ lại hơn 20 năm tuổi tôi lúc ấy” .

Họ cũng thấy mình có thể du hành rất nhanh, chỉ bằng năng lực của tâm ý. Một cựu chiến binh Việt Nam đã kể với Michael Sabom rằng :

“Tôi có cảm tưởng tôi nghĩ tới nơi nào là có mặt ngay ở đấy... Tôi khoái chí vì cảm giác về năng lực thần thông này. Tôi có thể làm bất cứ gì mình muốn... Ðiều ấy còn thực hơn là chuyện tôi hiện đang ở đây nữa, thực đấy”.

“Bỗng chốc tôi nhớ mình trở lại nơi chiến trường, chỗ tôi đã chết... Dường như thể là bạn hiện thân ra ngay ở đấy, rồi một giây sau, bạn đã ở đây, như một cái chớp mắt”.

Nhiều người chết đi sống lại cũng đã báo cáo họ có một cảm thức toàn tri “từ khởi thủy cho đến chung cuộc của thời gian”. Một phụ nữ kể với Rayond Moody : “Bỗng chốc, tôi có được hiểu biết về mọi sự từ vô thủy đến vô chung. Trong một giây, tôi có thể biết được bí mật của các thời đại, biết được ý nghĩa của vũ trụ, trăng sao, biết tất cả”.

“Có một giây phút trong đó dường như tôi biết tất cả mọi sự... Trong giây lát, ở đấy, dường như ngôn từ không cần thiết. Tôi nghĩ rằng tất cả điều gì tôi muốn biết là có thể biết ngay”.

“Khi ở đấy, tôi cảm thấy mình ở trung tâm điểm của sự vật. Tôi cảm thấy mình sáng suốttrong sạch. Tôi cảm thấy mình có thể thấy được ý nghĩa cốt yếu trong mọi sự. Mọi sự đều khít khao, đều có ý nghĩa của nó, ngay cả những lúc đen tối nhất. Nó như thể là những mảnh vụn của một trò chơi nối ráp đã được kết lại vừa khít”.

4- Gặp gỡ người khác

Tử Thư Tây Tạng mô tả thân ý sanh trong Bardo tái sanh là có gặp những người chết khác trong cõi Trung Ấm tương tự, người chết đi sống lại cũng thường (trong lúc chết) có thể nói chuyện với người đã chết.

Cựu chiến binh Việt Nam kể cho Michael Sabom, khi ông ta nằm bất tỉnh trên chiến trường, ngắm cái thi thể mình :

“13 ba đứa đã bị tử trận vào ngày hôm trước, mà tôi đã cho vào túi nylon, bây giờ đang ở đấy với tôi. Hơn thế nữa, suốt trong tháng năm ấy, trung đoàn tôi chết 42 người. Tất cả 42 người đều có mặt ở đấy. Họ không ở trong hình dạng mà ta thấy như người thường... Nhưng tôi biết họ ở đấy. Tôi cảm thấy hiện diện của họ. Chúng tôi liên lạc với nhau không cần ngôn ngữ, lời nói”.

Một phụ nữ bị đứng tim vì thuốc gây mê trong lúc nhổ răng, đã nói :

“Khi ấy tôi thấy mình đang ở trong một phong cảnh đẹp đẽ, cỏ xanh hơn bất cứ thứ gì tôi đã thấy trên mặt đất, nó có một ánh sáng, một vẻ rực rỡ đặc biệt. Những màu sắc đẹp vượt ngoài mô tả, không có màu gì ở trên đời có thể so sánh được... Ở chỗ này, tôi thấy lại những người tôi biết đã chết. Không có lời trao đổi, nhưng dường như tôi biết được họ đang nghĩ gì, đồng thời tôi biết họ biết tôi đang nghĩ gì”.

5- Những cảnh giới khác nhau

Trong Bardo tái sanh, ngoài các loại thấy khác, thân ý sanh còn thấy được những ảnh tượng và dấu hiệu của những cảnh giới khác nhau. Một số ít trong những người chết đi sống lại thuật về những cảnh tượng của thế giới nội tâm, về những cõi thiên đường, đô thị ánh áng, với âm nhạc siêu trần.

Một phụ nữ kể với Raymond Moody :

“Ở tuốt đằng xa... tôi có thể trông thấy một đô thị. Có những tòa nhà riêng rẻ, sáng chói, rực rỡ. Người ta sống hạnh phúc trong đó. Có hồ nước, suối nước tung tóe... cả một đô thị ánh sáng, tôi có thể nói : thật tuyệt vời. Lại có âm nhạc tuyệt diệu. Mọi thứ đều sáng chói, diệu kỳ... Nhưng, nếu tôi vào trong đó, thì tôi nghĩ tôi đã không bao giờ trở lại... Tôi được bảo cho biết rằng nếu vào đấy thì tôi không thể trở về... rằng tôi có quyền quyết định”.

Một người khác kể với Margot Grey :

“Tôi dường như thấy mình ở trong một cái gì như là một dinh thự, nhưng tôi không thể nhớ được có tường vách nào. Chỉ có một ánh sáng vàng ròng lan khắp... Tôi để ý quanh tôi nhiều người dường như đang tản bộ, mỉm cười ; họ dường như không phải đang đi, mà họ đang lướt qua. Tôi không cảm thấy có gì ngăn cách với họ ; tất cả cảm giác tôi nhớ nhất về họ là, một cảm thức toàn triệt về nhất thể ; tôi là một phần của tất cả mọi thứ quanh tôi”.

6- Cảnh tượng địa ngục

Nhưng không phải tất cả mọi người chết đi sống lại đều mô tả những cảnh tượng tích cực lạc quan, vì bạn cũng đã thấy nói trong Tử Thư Tây Tạng. Vài người kể họ đã kinh quá những nỗi sợ hãi kinh hoàng, cô độc, buồn sầu ảm đạm, rất giống với cảnh tượng mô tả trong Trung Ấm tái sanh.

Theo báo cáo của Margot Grey, một người đã kể : họ “như bị hút vào trong một vực nước xoáy rộng lớn, đen ngòm”, và những người đã làm ác thì thấy mình đang du hành xuống phía dưới thay vì hướng lên trên, giống như Tử Thư mô tả những người sắp bị rơi vào những đọa xứ trong Trung Ấm tái sanh :

Tôi đang di chuyển như một phần của một dòng sông âm thanh - tiếng người lải nhải bất tận... Tôi thấy mình chìm vào trong đó, trở thành một phần của dòng nước và từ từ bị chìm ngập. Một nỗi kinh hoàng tóm lấy tôi, như thể tôi biết rằng một khi bị nuốt chửng bởi cái khối lượng tiếng ồn càng lúc càng tăng này, thì tôi sẽ chết mất.

Tôi đang dòm xuống một cái hố rộng sâu, đầy những sương mù cuồn cuộn. Từ dưới ấy có vô số những bàn tay và cánh tay vươn lên cố chụp bắt lấy tôi, kéo tôi vào đấy. Có tiếng rên siết kinh khủng, đầy tuyệt vọng.

(Trở về từ cõi chết, trang 32)

Những người khác kinh quá những điều mà ta chỉ có thể gọi là cảnh tượng địa ngục, với hơi nóng ngột ngạt và khí lạnh kinh hồn, và nghe những âm thanh của sự kêu la do bị hành hạ, hay tiếng gì như tiếng thú rừng. Theo báo cáo của Margot Grey, một phụ nữ đã kể :

“Tôi thấy mình ở một nơi xung quanh toàn là sương mù mờ mịt. Tôi cảm thấy mình đang ở địa ngục. Có một cái hố thật lớn từ trong đó hơi nóng tuôn ra, có những bàn tay và cánh tay đưa lên cố níu lấy tay tôi... Tôi kinh hoảng, sợ rằng bàn tay ấy sắp sửa tóm lấy tôi mà kéo vào trong địa ngục với họ... Từ phía khác, một con sư tử khổng lồ nhảy chồm về phía tôi, tôi thét lên. Tôi không sợ con sư tử, mà sợ nó sẽ làm cho tôi mất chân đứng và xô tôi vào cái hố sâu kinh khủng ấy... Dưới đó vô cùng nóng và luồng hơi dưới ấy tuôn lên cũng nóng khủng khiếp”.

(Grey, Trở về từ cõi chết, trang 63)

 Một người đàn ông bị đứng tim đã kể lại :

“Tôi đang đi xuống, xuống sâu trong lòng đất. Có nỗi giận dữ, và tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng. Mọi sự đều một màu xám. Có tiếng ồn náo khủng khiếp như những con thú điên dại đang gầm gừ nghiến răng”.

(Trở về từ cõi chết, trang 70)

Raymond Moody viết : Có nhiều người cho rằng họ đã thấy những người dường như đã bị mắc bẫy do không thể đầu hàng cái khuynh hướng bám víu thế giới vật lý : tài sản, người, tập quán. Một phụ nữ nói về những con người “lạc loài” ấy như sau :

“Ðầu họ cúi xuống, họ có những vẻ buồn thảm tuyệt vọng, họ dường như đang lê bước, như bị xiềng chung lại với nhau, không biết mình đang đi đâu, không biết có ai để đi theo, hay có cái gì để tìm kiếm. Khi tôi đi qua, họ không buồn ngẩng lên nhìn xem cái gì. Họ dường như nghĩ : “Thôi, thế là xong. Tôi đang làm gì ? Tất cả chuyện này có nghĩa gì ?”. Chỉ thuần một tư thái vô vọng như thế, không biết mình phải làm gì, phải đi đâu, không biết mình là ai, hay gì cả. Họ dường như đi mãi, đi mãi tới trước, chứ không phải chỉ ngồi một chỗ, nhưng không có một hướng đặc biệt nào. Họ cứ đi thẳng tới, quay qua trái vài bước, rồi lại quay qua phải. Và tuyệt đối không có một việc gì để làm. Họ đang tìm kiếm, nhưng tìm cái gì tôi không biết được”.

(Moody, Tư duy, trang 19)

Trong những tường thuật mà ta có về kinh nghiệm cận tử, người ta thỉnh thoảng thấy có một ranh giới, một điểm ở đấy không thể có chuyện trở về. Ở ranh giới ấy, đương sự chọn lựa, hay được ánh sáng hiện diện bảo phải chọn lựa, trở về đời sống. Dĩ nhiên trong giáo lý Trung Ấm của Tây Tạng không có điều này, vì Tử Thư thì mô tả về những người đã chết thực sự. Tuy nhiênTây Tạng có một số người gọi là déloks, cũng có cái gì gần giống với kinh nghiệm cận tử, và những gì họ thuật lại giống nhau một cách lạ lùng.
 
 

Délok : một kinh nghiệm cận tử của Tây Tạng

Một hiện tượng lạ lùng, ít được biết ở Tây phương, nhưng rất quen thuộcTây Tạng, là délok. Tạng ngữ délok có nghĩa “trở về từ cõi chết”, và truyền thống délok là những người dường như “chết” do hậu quả một cơn bệnh, và tự thấy mình du hành trong cõi Trung Ấm. Họ đi thăm các cõi địa ngục, ở đấy họ chứng kiến sự phán xét người chết và những thống khổđịa ngục, và đôi khi họ lên thiên đường hay những cõi Phật. Họ có thể được một thiên thần mang đi, người bảo vệ họ và giải thích cho họ những gì xảy đến. Sau một tuần, người chết trở về thân xác với một thông điệp của Diêm vương gởi cho những người sống, giục họ phải tu hành và có một đời sống lợi lạc. Thông thường, những người déloks này rất khó mà làm cho người ta tin được những gì họ kể, và họ dành suốt đời còn lại để kể cho người khác nghe những kinh nghiệm của mình, để làm cho người ta tiến đến con đường tuệ giác. Có vài tiểu sử những déloks nổi tiếng được ghi lại thành vè, và được những người hát rong ca khắp xứ Tây Tạng. Một số khía cạnh của kinh nghiệm những déloks không những tương đương với giáo lý Trung Ấm trong Tử Thư Tây Tạng, mà còn tương đương với kinh nghiệm cận tử.

Lingza Chokyi là một délok nổi tiếng, xuất thân từ vùng quê tôi ở Tây Tạng và sống vào thế kỷ 16. Trong tiểu sử của bà, bà kể rằng bà không nhận ra mình đã chết, bà thấy mình thoát xác, thấy xác một con heo nằm trong giường bà, mặc áo quần của bà. Bà cuống cuồng cố một cách vô vọng để liên lạc với gia đình, khi họ đang khởi sự công việc cầu nguyện cho cái chết của bà. Bà đâm ra tức giận họ, khi họ tỉnh bơ không để ý gì tới mình, và không dọn thức ăn cho mình. Khi những con cái bà khóc lóc, bà cảm thấy như “một trận mưa đá đầy cả máu mủ” tuôn xuống, làm cho bà đau đớn vô cùng. Bà cho chúng ta biết bà rất vui khi thấy làm lễ cầu siêu cho bà, và cuối cùng một niềm hạnh phúc vô lượng dâng lên khi bà đến trước bậc thầy đang làm lễ cho bà, đang an trú trong tự tánh tâm, và khi ấy tâm bà với tâm thầy trở thành một.

Sau một lúc bà nghe tiếng gọi của người mà bà nghĩ là thân phụ mình, và bà đi theo ông. Bà đến cõi Trung Ấm, mà bà trông giống như một xứ sở. Từ đấy, bà kể, có một cây cầu dẫn xuống các cõi địa ngục, nơi mà Diêm vương đang kể những hành vi thiện ác của người chết. Trong cõi này, bà gặp nhiều người kể cho bà nghe chuyện của họ, và bà trông thấy một thiền giả vĩ đại đã xuống địa ngục để giải cứu các chúng sanh.

Cuối cùng Lingza Chokyi được trả về thế gian, vì có sự lầm lẫn về lý lịch, bà chưa tới số chết. Với thông điệp từ Diêm vương cho những người sống, bà trở về nhập xác và bình phục. Bà đã dành cuộc đời còn lại để kể những gì bà đã học được. Hiện tượng délok không chỉ có trong quá khứ, mà vẫn tiếp diễn đến rất gần đây, ở Tây Tạng. Ðôi khi một người như vậy rời bỏ thân xác chừng một tuần, gặp những người đã chết, đôi khi là những người họ hoàn toàn không quen biết. Những người này gửi gắm những thông điệp để mang về trần gian cho bà con họ, bảo bà con phải làm lễ này, lễ nọ nhân danh họ. Người chết hụt khi trở về sẽ nói lại những thông điệp ấy cho những thân quyến của người kia. Ở Tây Tạng, việc này được xem là thường, và có những phương pháp tinh vi để thử xem nhữngn gười sống lại ấy là thật hay giả. Con gái của Dilgo Khientse Rinpoche kể cho Francoise Pommaret, tác giả một quyển sách về các délok, rằng ở Tây Tạng, trong khi người délok đang trải qua cơn hôn mê, thì các lỗ trên thân xác của họ được bít lại bằng bơ và bột lúa mạch trát lên mặt họ. Nếu bơ không chảy ra, mặt nạ lúa mạch không nứt ra thì vị délok ấy được xác nhận là có chết thực. Truyền thống déloks vẫn tiếp tụcTây Tạng và vùng Hy Mã Lạp Sơn cho đến ngày nay. Những déloks là những người hoàn toàn bình thường, thường là những phụ nữ sùng tín. Họ “chết” vào những ngày đặc biệt trong lịch Phật giáo, chết đi vài giờ, và nhiệm vụ chính của họ là làm những sứ giả giữa người chết với người sống.
 
 

Thông điệp của kinh nghiệm cận tử

Như ta đã thấy, có những giống nhau giữa kinh nghiệm cận tử và giáo lý về cõi trung gian, nhưng cũng có những khác nhau. Sự khác nhau lớn nhất dĩ nhiên là người có kinh nghiệm cận tử chưa thực chết, trong khi giáo lý Bardo thì nói về những gì xảy ra sau khi thân xác thực sự chết, và khi họ tái sanh. Sự kiện rằng kinh nghiệm cận tử không tiếp tục đi cuộc hành trình xa hơn vào cõi chết - vài người nói họ chỉ “chết” trong một phút - phần nào giải thích được sự khác nhau giữa hai bên.

Vài người cho rằng kinh nghiệm cận tử diễn tả những giai đoạn của tiến trình tan rã trong Bardo cái chết. Tôi nghĩ còn quá sớm để cố liên hệ kinh nghiệm cận tử một cách chính xác với các mô tả về Trung Ấm, vì người kinh quá kinh nghiệm cận tử chỉ có “suýt” chết mà thôi. Tôi thuật cho thầy Dilgo Khientse Rinpoche tính chất kinh nghiệm cận tử, và thầy gọi đó là một hiện tượng thuộc về cõi trung gian tự nhiên của cuộc đời này, vì tâm thức chỉ tạm rời khỏi thân xác của người “chết” và lang thang trong các cõi.

Dilgo Khientse Rinpoche ngụ ý rằng những người chết đi sống lại đang kinh quá sự chết lâm sàng ở trong cõi trung gian tự nhiên của đời này. Có lẽ họ đang ở ngưỡng cửa của các cõi Trung Ấm, chứ chưa thực sự đi vào trong ấy rồi trở về. Dù họ kinh quá những gì đi nữa, họ cũng vẫn đang còn trong phạm vi Bardo tự nhiên của đời này. Kinh nghiệm về ánh sáng của họ có giống với sự xuất hiện Ánh sáng Căn bản chăng ? Có thể chăng ngay trước khi mặt trời to rộng ấy mọc lên, họ đã nhìn thấy được những tia sáng đầu tiên của bình minh ?

ý nghĩa tối hậu của những chi tiết kinh nghiệm cận tử ra sao, tôi vẫn rất xúc động trước nhiều báo cáo mà tôi đã đọc hoặc nghe nói, nhất là trước những thái độ tuôn phát từ những kinh nghiệm ấy, những thái độ đã phản ảnh một cách phong phú nhân sinh quan của đạo Phật. Hai thái độ tôi đã đề cập là sự chuyển hóa sâu xa, sự bừng tỉnh về tâm linh xảy ra nơi những người chết đi sống lại, và những ý nghĩa mà “toàn cảnh cuộc đời” đem lại cho đời sống chúng ta. Tất cả những người chết đi sống lại đều có cái kinh nghiệm này, thấy toàn cảnh cuộc đời mình diễn lại, và điều ấy chứng minh rõ ràng tính cách không thể trốn tránh của nghiệp, những hậu quả lâu xa và mãnh liệt của tất cả hành động, lời nóiý nghĩ chúng ta. Thông điệp chính mà những người chết đi sống lại đem về cuộc đời này, hay hiện diện của “thực thể ánh sáng”, là giống hệt như thông điệp của Phật và giáo lý Trung Ấm : những đức tính cốt yếu và quan trọng nhất trong đờiyêu thươnghiểu biết, từ bitrí tuệ. Những người ấy chắc chắn bắt đầu thấy cái mà giáo lý Trung Ấm dạy chúng ta rằng : sống và chết ở ngay trong tâm. Và niềm tin mà phần nhiều họ có được sau khi chết đi sống lại cũng phản chiếu phần nào cái tri kiến sâu xa hơn của họ.

Còn có những tương đồng lạ lùng giữa kinh nghiệm cận tử và hậu quả nó, với những trạng thái thần bítâm thức đổi khác. Chẳng hạn, một số hiện tượng bất thường đã được những người chết đi sống lại báo cáo. Một vài người sau đó đã có những linh kiến tiên tri, nói trước nhiều việc xảy ra trong đời mà về sau quả đã thành sự thực. Sau khi chết đi sống lại, nhiều người dường như kinh quá năng lực kundalini, nhiều người cảm thấy họ có năng lực thần thông hoặc chữa lành bệnh tật.

Nhiều người sống lại đã nói một cách lưu loát về vẻ đẹp, tình yêu, sự bình an, hạnh phúctrí tuệ của cái mà họ đã trải qua trong giây phút chết. Với tôi, điều này có vẻ như họ có được một thoáng nhìn thấy vẻ sáng chói của tự tánh tâm, và do vậy không đáng ngạc nhiên chút nào khi cái nhìn ấy đã đem lại sự chuyển hóa tâm linh nơi họ. Nhưng như Margot Grey nhận xét : “Chúng ta không cần phải đợi suýt chết mới kinh quá được một thực tại tâm linh cao cả”. Thực tại ấy ở ngay đây, vào lúc này, trong cuộc đời, nếu ta có thể khám pháthể nhập.

Tôi lại muốn đưa ra một đề phòng cốt yếu : Xin bạn đừng để những tường thuật về kinh nghiệm cận tử - dù cũng khá hấp dẫn thật đấy - ru ngủ bạn đến chỗ tin rằng muốn an trú trong những trạng thái thanh bình an lạc ấy, bạn chỉ cần chết là được. Không phải và không thể giản dị thế đâu.

Ðôi khi người ta gặp lúc quá đau khổ, tưởng chừng không chịu nổi nữa, mà nghe nói về những kinh nghiệm cận tử, họ có thể bị cám dỗ chấm dứt mọi sự bằng cách tự sát. Ðiều này có vẻ là một cách giải quyết đơn giản, nhưng họ quên một sự kiện rằng, bất cứ cái gìø ta trải qua đều là một phần của cuộc đời. Không thể trốn chạy. Nếu trốn chạy kiểu đó, bạn sẽ phải đối mặt với nỗi đau khổ một cách sâu đậm hơn về sau.

Ngoài ra, trong khi quả thực đa số kinh nghiệm cận tử được sưu tập đều là những kinh nghiệm tốt đẹp, ta vẫn phải còn xét lại xem điều này nó có nghĩa là có rất hiếm kinh nghiệm ghê gớm, tiêu cực, hay chỉ có nghĩa là những kinh nghiệm này khó nhớ lại. Có thể người ta không muốn nhớ lại những chuyện đen tối khủng khiếp. Lại nữa, những người có kinh nghiệm cận tử cũng nhấn mạnh rằng, điều mà họ học được là sự quan trọng của việc cải hóa cuộc đời ngay bây giờ, khi ta còn sống, vì họ bảo, chúng ta “có một sứ mạng quan trọng hơn trong lúc ta ở trên đời” .

Sự chuyển hóa cuộc đời ta ngay bây giờ là điều cấp thiết cốt yếu. Phải chăng thực là bi đát nếu cái thông điệp cốt tủy này của kinh nghiệm cận tử - rằng đời sốngthiêng liêng, và cần phải sống một cách nhiệt tình, có mục đích - lại bị che lấp, bị mất hút trong thái độ hời hợt là thi vị hóa cái chết ? Và có phải càng bi đát hơn, nếu thái độ lạc quan dễ dãi ấy càng đào sâu thêm thói xem nhẹ trách nhiệm đối với bản thân và với cuộc đời, một thói đang đe dọa sự sống còn của hành tinh trái đất ?
 
 

Ý nghĩa kinh nghiệm cận tử

Dĩ nhiên vài người cố tình chứng minh rằng những chuyện xảy ra trong lúc chết đi sống lại không có gì là kinh nghiệm tâm linh cả. Những nhà khoa học cố giải thích quấy quá những kinh nghiệm ấy là do những ảnh hưởng vật lý, thần kinh, hóa học hay tâm lý. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, cũng là bác sĩ và khoa học gia, thì lại bác bỏ từng điểm một của giải thích ấy một cách minh bạch, và nhấn mạnh rằng họ không thể giải thích toàn thể kinh nghiệm cận tử. Melvin Morse viết cuốn tác phẩm vĩ đại của ông “Gần ánh sáng hơn” , học từ kinh nghiệm cận tử của trẻ em :

“Nhưng kinh nghiệm cận tử có vẻ là một chùm biến cố mà người ta không thể hiểu được toàn diện bằng cách nhìn từng mảnh vụn khác nhau của nó. Ta không thể hiểu âm nhạc bằng cách nghiên cứu những tần số âm thanh khác nhau đã tạo nên mỗi nốt nhạc, ta cũng không cần phải thấu hiểu vật lý học về âm thanh mới thưởng thức được Mozart. Kinh nghiệm cận tử vẫn còn là một sự huyền bí”. (tr.40)

Melvin Morse còn nói :

“Tôi nghĩ rằng chỉ cốt hiểu được kinh nghiệm cận tử, đó là bước đầu của chúng ta để hàn gắn sự phân chia lớn lao giữa khoa học và tôn giáo, khởi đầu với Isaac Newton gần 300 năm trước. Việc giáo dục những y sĩ, điều dưỡng viên, và chính chúng ta về những gì người ta kinh quá vào những giờ phút cuối cùng ấy, sẽ lung lay tận gốc những thành kiến ta trong đường lối suy nghĩ của ta về y học và đời sống”.

Nói cách khác, tiến bộ thực sự của kỹ thuật y khoa đồng thời cung cấp phương tiện cho nó tự cách mạng chính nó. Melvin Morse nói :

“Tôi thấy điều thực mỉa mai là chính kỹ thuật y khoa của chúng ta đã đưa đến vô số những kinh nghiệm cận tử như thế... Trải hàng thế kỷ, đã có nhiều kinh nghiệm cận tử, nhưng chỉ có 20 năm sau này ta mới có được kỹ thuật để phục sinh bệnh nhân. Bây giờ họ đang kể cho chúng ta nghe những kinh nghiệm của họ, vậy ta hãy lắng nghe họ nói. Ðiều này tôi cho là một thử thách cho xã hội ta... Kinh nghiệm cận tử, theo tôi nghĩ, là tiến trình tâm lý tự nhiên liên hệ đến cái chết. Tôi dám tiên đoán rằng, nếu ta có thể hội nhập tri kiến này vào đời sống xã hội ta, thì không những nó sẽ giúp cho những bệnh nhân sắp chết, mà còn giúp cho xã hội nói chung. Tôi thấy y khoa ngày nay thiếu hẳn tâm hồn... Không có lý do nào kỹ thuật và tâm linh không thể hiện hữu bên nhau được”.

Một trong những lý do tôi viết sách này là để chứng tỏ tôi tin điều Melvin Morse nói là có thể thực hiện. Kỹ thuật và tâm linh có thể, và cần phải, hiện hữu song hành, nếu ta muốn phát triển tiềm năng con người chúng ta một cách toàn vẹn. Phải chăng một nền khoa học nhân bản hoàn toàn hữu ích sẽ có can đảm khám phá những dữ kiện huyền bí về cái chết, những dữ kiện được khải thị trong kinh nghiệm cận tử và trong sách này ?

Bruce Greyson, một trong những tác giả quan trọng trong ngành nghiên cứu kinh nghiệm cận tử đã nói :

“Khoa học nên cố giải thích kinh nghiệm cận tử, vì trong đó có chìa khóa của sự tăng tiến khoa học... Lịch sử đã cho ta thấy chỉ nhờ cố giải thích những hiện tượng vượt ngoài tầm của ta mà khoa học đã phát huy được những phương pháp mới. Tôi tin kinh nghiệm cận tử là một trong những nạn để có thể bắt buộc các nhà khoa học phải phát triển một phương pháp mới, một phương pháp bao gồm một nguồn tri thức, không những chỉ tri thức lô-gích của học giả, hay quan sát thực nghiệm của nhà vật lý, mà còn cả kinh nghiệm trực giác của nhà thần bí nữa”.

Bruce Greyson cũng nói, ông tin kinh nghiệm cận tử xảy ra vì một lý do : “Căn cứ trên sự canh chừng những kinh nghiệm cận tử bao năm nay, tôi nghĩ rằng chúng ta có những kinh nghiệm như thế là để mà học cách giúp đỡ người khác”.

Kenneth Ring lại con thấy một khả năng và ý nghĩa kỳ diệu trong kinh nghiệm cận tử. Ông ta hỏi tại sao ngày nay có quá nhiều người có kinh nghiệm ấy như vậy, và có sự chuyển hóa tâm linh vào thời đại này. Trong nhiều năm làm một trong những tiên phong gan dạ nhất trong lĩnh vực nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, ông đã dần dần thấy kinh nghiệm cận tử như là “sứ giả của hy vọng”, nó cho thấy một thực tại tâm linh cao cả hơn, và nhắc nhở chúng ta thay đổi một cách khẩn thiết mọi khía cạnh của lối sống ta hiện tại ; nhắc ta chấm dứt mọi tranh chấp, chia rẽ giữa những tôn giáo, dân tộc, và bảo vệ, cứu lấy sinh môi.

“Tôi tin rằng nhân loại nói chung đang cùng nhau nỗ lực để thức dậy một hình thái tâm thức mới mẻ hơn và cao cả hơn, và kinh nghiệm cận tử có thể được xem như một phương tiện tiến hóa để đem lại sự thay đổi này, qua thời gian vài năm, trong hàng triệu con người”.

(Tiến về Omega, tr.7)

Có thể rằng điều này đúng hay không, còn tùy ở tất cả chúng ta : chúng ta có thực can đảm đối diện với những ý nghĩa hàm ẩn trong kinh nghiệm cận tử và giáo lý về Trung Ấm hay không, và có thể nhờ sự cải hóa mình, mà chuyển hóa được thế giới xung quanh ta, - và lần lượt qua từng giai đoạn, chuyển hóa toàn thể tương lai nhân loại - hay không.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9786)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10337)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34404)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9177)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20440)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8749)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12107)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10613)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9188)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9448)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8352)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9389)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8337)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8521)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7968)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8618)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30402)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9629)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9508)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23696)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9638)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27115)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32701)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27751)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58665)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9389)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28144)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23270)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant