Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Giúp đỡ tinh thần cho người sắp chết

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11776)
13. Giúp đỡ tinh thần cho người sắp chết


Tôi đến Tây phương đầu tiên vào đầu thập niên 1970, và điều đã làm tôi khó chịu nhất, và hiện nay vẫn còn khó chịu, là hầu như thiếu hẳn sự giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối hiện nay trong nền văn minh tân tiến. Ở Tây Tạng, như tôi đã nói, mỗi người đều có vài hiểu biết về những sự thật cao siêu của đạo Phật, và vài liên hệ với một bậc thầy. Không ai chết mà bị cộng đồng của họ bỏ rơi, trên phương diện thiển cận cũng như sâu xa. Người ta đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện về người chết ở Tây phương bị bỏ rơi, buồn khổ, vỡ mộng, không một nâng đỡ tinh thần nào. Một trong những động lực thúc đẩy tôi viết sách này là muốn trải đến tất cả mọi người (Tây phương) sự minh triết của Tây Tạng, có thể hàn gắn sự thiếu sót ấy. Phải chăng tất cả chúng ta đều có quyền lúc chết không những xác ta được đối xử với niềm kính trọng, mà còn quan trọng hơn nữa là tâm thức chúng ta ? Phải chăng một trong những quyền chính của bất cứ xã hội văn minh nào, là để cho mỗi người trong đó đều có quyền được chết trong sự săn sóc phần tâm linh một cách toàn hảo nhất ? Có phải chúng ta chỉ thực sự văn minh khi điều này trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận ? Có nghĩa gì các nền kỹ thuật đưa người lên cung trăng, khi mà ta không biết cách nào giúp đồng loại mình chết có tư cáchhy vọng ?

Sự săn sóc tâm linh không chỉ là một xa xỉ phẩm dành cho thiểu số, nó là quyền thiết yếu của mỗi người, cũng thiết yếu như quyền chính trị, y tế và bình đẳng trong cơ hội. Một lý tưởng dân chủ thực sự phải bao gồm sự săn sóc tâm linh có thể thừa nhận đối với mọi người, kể như một trong những sự thật thiết yếu nhất của nó.

Bất cứ ở đâu tôi đến tại Tây phương, tôi đều kinh ngạc trước nỗi đau khổ tinh thần lớn lao do sự sợ chết phát sinh, dù họ có chấp nhận nỗi sợ ấy hay không. Thật là một điều an tâm biết bao cho người ta, nếu họ biết rằng khi nằm xuống chết họ sẽ được săn sóc với niềm yêu thươngtrí tuệ. Nền văn hóa chúng ta hiện nay thực nhẫn tâm trong sự khôn khéo của nó, sự phủ nhận mọi giá trị tâm linh của nó, đến nỗi con người ta mỗi khi đối diện với cơn bệnh nan y thì cảm thấy kinh hoàng như họ sắp bị vứt đi như một món hàng vô dụng. Ở Tây Tạng, phản ứng tự nhiêncầu nguyện cho người sắp chết và săn sóc tâm linh cho họ. Còn ở phương Tây, sự lưu ý duy nhất về tâm linhđa số người đem lại cho người chết chỉ là đi đưa đám ma.

Quả vậy, trong thế giới Tây phương vào cái thời điểm đau đớn nhất của người hấp hối, họ thường bị bỏ rơi, hoàn toàn không được một nâng đỡ hay một tuệ giác nào để giúp họ. Ðấy là một thực trạng bi đát sỉ nhục, cần phải thay đổi. Tất cả những tự hào về uy lựcthành công của nhân loại tân thời sẽ là rỗng tuếch, khi mà mọi người chưa được chết trong một mức độ an bình nào đó, khi chưa có ít nhất một vài nỗ lực để đảm bảo khả năng ấy.
 
 

Bên cạnh tử sàng

Một người bạn tôi, mới tốt nghiệp một trường y khoa nổi tiếng, khởi sự phục vụ trong một bệnh viện lớn ở Luân Ðôn. Vào ngày đầu của phiên cô ta trực, có bốn năm người bệnh chết. Ðấy là một cú sốc kinh khủng đối với cô, vì không có một điều gì cô đã học có thể giúp cô đối phó thực tại ấy. Có phải đáng ngạc nhiên không, khi xét rằng cô đã được huấn luyện để làm một bác sĩ ? Một ông già nằm trên giường, mắt trợn trừng nhìn lên vách. Ông ta chỉ có một mình, không có gia đình bè bạn nào đến thăm viếng cả, và ông mong mỏi có được một người nào để nói chuyện. Cô đi đến nơi ông. Ðôi mắt ông đẫm lệ, giọng run run, ông hỏi cô ta một câu mà cô không ngờ : “Bà có nghĩ rằng Thượng đế sẽ tha tội cho tôi không ?” . Bạn tôi không biết phải trả lời như thế nào ; thời gian học tập y khoa hoàn toàn không chuẩn bị cho cô những vấn đề tâm linh. Cô không có gì để nói, tất cả gì cô có bên trong chỉ là nghề nghiệp y khoa của cô. Không có nhà nguyện ở gần, và cô cứ đứng đấy, tê liệt, không thể trả lời sự kêu cứu tuyệt vọng của con bệnh, đang van xin một lời bảo đảm về ý nghĩa cuộc đời.

Cô hỏi tôi trong ngạc nhiên đau đớn : “Ngài làm được gì trong hoàn cảnh ấy ?” . Tôi nói, tôi sẽ ngồi bên cạnh ông, cầm tay ông và để cho ông nói. Tôi vẫn thường kinh ngạc nhiều lần khi thấy - nếu bạn cứ để cho người ta thổ lộ, nếu bạn chú ý lắng nghe với tâm từ mẫn - họ có thể nói những lời có chiều sâu tâm linh lạ lùng, dù cho họ nghĩ là họ không tin tôn giáo nào cả. Mỗi người đều có tuệ giác của riêng họ về đời sống, nên khi bạn để cho họ nói, là bạn làm cho tuệ giác ấy hiển lộ. Tôi vẫn thường xúc động khi thấy được rằng, ta có thể giúp người khác “tự cứu mình” bằng cách ta giúp họ khám phá sự thật trong chính họ, một sự thật mà có thể họ chưa từng biết nó phong phú, ngọt ngào, sâu xa đến mức nào. Suối nguồn của sự lành mạnhtuệ giác vốn ẩn sâu trong mỗi chúng ta, và công việc của bạn tuyệt nhiên không phải là áp đặt niềm tin của bạn, mà chính là giúp họ có thể tìm thấy suối nguồn của tuệ giác ấy trong chính họ.

Khi ngồi bên cạnh người sắp chết, bạn hãy tin rằng bạn đang ngồi bên cạnh một người có tiềm năng thực sự để thành Phật. Hãy tưởng tượng Phật tính họ như một tấm gương sáng vô cấu, và tất cả đau đớn lo sợ của họ chỉ như sương mù mỏng manh trên mặt gương, có thể nhanh chóng dẹp bỏ. Ðiều này sẽ giúp bạn nhìn thấy họ rất dễ thương, đáng tha thứ, và giúp bạn rút ra tình yêu vô điều kiện của bạn. Bạn sẽ thấy thái độ này làm cho người sắp chết mở lòng ra với bạn. Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường bảo : Giúp một người sắp chết giống như đưa ra một bàn tay để đỡ người sắp té. Nhờ sức mạnh, sự bình an, sự chú ý sâu xa đầy bi mẫn của bạn, mà bạn có thể giúp họ đánh thức sức mạnh nơi chính họ. Tính chất sự hiện diện của bạn vào cái lúc dễ tổn thương nhất, gay cấn nhất ấy thực vô cùng quan trọng. Cicely Saunders viết : “Người sắp chết đã rũ bỏ những mặt nạ và những nông cạn của sự sống hàng ngày, và chính vì vậy mà họ cởi mở hơn, nhạy cảm hơn. Họ thấy rõ mọi sự giả dối. Tôi nhớ một người đã nói : “Không, xin đừng đọc. Tôi chỉ cần những gì ở trong trí bạn, trong tim bạn mà thôi” .

Tôi chưa bao giờ đến bên giường người sắp chết mà trước đấy không nhúng mình vào bầu không khí thiêng liêng của tự tánh tâm. Khi ấy tôi không cần phải vất vả để có được tâm đại bi và sự chân thực, vì những tính này đã có ở trong đấy, chiếu sáng một cách tự nhiên.

Cần nhớ rằng bạn không thể làm gì để gây cảm hứng cho người trước mặt bạn, nếu chính bạn không có cảm hứng từ trong tâm bạn. Bởi vậy, khi nào bạn không biết phải làm gì, không biết làm sao để giúp đỡ, thì hãy cầu nguyệnthiền quán, triệu thỉnh Phật hay bất cứ năng lực thiêng liêng nào bạn tin. Mỗi khi gặp người nào đang trải qua nỗi thống khổ ghê gớm, tôi lại tha thiết cầu khẩn sự giúp đỡ của chư Phật và thánh chúng, với tim tôi hoàn toàn mở về hướng người sắp chết, tràn đầy bi mẫn đối với nỗi đau của họ. Thu hết năng lực của lòng sùng kính tin tưởng, tôi quán hình ảnh các ngài đầy ánh sáng đang ở trên đầu người sắp chết, từ bi nhìn xuống họ và chan hòa ánh sáng ân sủng lên họ, thanh lọc ác nghiệp họ trong quá khứ và nỗi đau đớn trong hiện tại. Tôi lại cầu nguyện cho người ấy không còn khổ nữa, được giải thoát bình an.

Tôi làm việc ấy với sự tập trung nghiêm cẩn, rồi an trú trong tự tính tâm, để cho sự bình an và ánh sáng của tự tính lan khắp không khí trong phòng. Tôi đã nhiều lần cảm thấy úy phục bởi cảm giác có một hiện hữu thiêng liêng đang ở đấy một cách tự nhiênảnh hưởng đến người sắp chết.

Tôi lại nói điều này, có lẽ sẽ làm bạn ngạc nhiên : có thể có đầy cảm hứng trong sự chết. Trong kinh nghiệm tôi có với những người sắp chết, tôi đã thấy rằng tôi phải kinh ngạc khi thấy sự cầu nguyện, triệu thỉnh của tôi đã làm thay đổi bầu không khí, khiến cho đức tin của tôi tăng trưởng sâu xa khi thấy hiệu lực của sự cầu nguyệnhiện hữu của chư Phật. Nhờ ở cạnh người sắp chết mà tự tu tập của tôi càng có năng lực lớn hơn.

Ðôi khi những người sắp chết cũng cảm nhận được bầu không khí đầy cảm ứng đạo giao ấy, và lấy làm tri ân vì đã tạo cơ hội cho cả hai chúng tôi cùng đạt đến một giây phút thực sự gây cảm khái và hoán cải.
 
 

Ðem lại hy vọng và tìm sự tha thứ

Tôi muốn nêu lên hai điểm trong việc giúp đỡ tinh thần người hấp hối : đem lại hy vọng, và tìm thấy sự tha thứ.

Khi gần người sắp chết, luôn luôn bạn chỉ nên giữ lấy những gì họ đã thành tựu được, những thành công của họ. Giúp họ cảm thấy họ đã sống một đời hữu ích và hạnh phúc, càng nhiều càng tốt. Tập trung vào đức tính của họ, chứ không tập trung vào lỗi lầm của họ. Người sắp chết thường rất nhạy cảm về tội lỗi, hối hận, buồn nản, hãy để họ trút hết tất cả ra, lắng nghe và công nhận những gì họ nói. Ðồng thời, lúc thích hợp, hãy nhớ nhắc họ Phật tính của họ, và khuyên họ cố an trú tự tính nhờ thiền định. Nhất là nhắc họ nhớ : đau đớn khổ sở không phải là cả cuộc đời họ. Tìm cách nào hiệu quả nhất, để gợi cảm hứng cho họ, gây cho họ niềm hy vọng. Nhờ vậy, họ có thể chết với tâm an lạc thay vì cứ nhớ tới lỗi lầm của mình.
 
 

*
 
 

Với người la lên một câu : “Bạn có nghĩ Thượng đế sẽ tha tội cho tôi chăng ?”, tôi sẽ nói : “Sự tha thứ đã có sẵn trong bản chất của Thượng đế. Thượng đế đã tha cho bạn rồi, vì Thượng đế chính là sự tha thứ. Lầm lạccon người, tha thứThượng đế. Nhưng bạn có thể tha thứ cho bạn không ? Ðó mới thực là vấn đề.

“Chính cái cảm tưởng không được tha thứ và không thể tha thứ đã làm cho bạn đau khổ. Nhưng cảm tưởng ấy chỉ có trong tâm trí bạn. Bạn chưa đọc về một vài kinh nghiệm cận tử nói có một ánh hào quang vàng rực chiếu đến toàn là sự tha thứ sao ? Và thông thường có câu rằng : chỉ có chúng ta tự phê phán chúng ta mà thôi. Muốn giải tỏa tội lỗi bạn, hãy xin thanh lọc từ tận đáy tim bạn. Nếu bạn thực sự xin sám hốitrải qua sự thanh lọc ấy, thì sự tha thứ đã có ở đấy rồi. Thượng đế sẽ tha thứ bạn, hệt như người cha tha thứ cho đứa con hoang đàng trong ẩn dụ đẹp đẽ của Ki-tô giáo. Muốn giúp bạn tự tha thứ cho bạn, thì hãy nhớ lại những việc tốt bạn đã làm, hãy tha thứ cho mọi người khác trong đời bạn, và xin lỗi bất cứ người nào mà bạn đã làm hại” .

Không phải ai cũng tin vào một tôn giáo, nhưng hầu như ai cũng tin vào sự tha thứ. Bạn có thể giúp người sắp chết rất nhiều bằng cách cho họ thấy thời gian cận tử là lúc để tha thứgiảng hòa.

Hãy khuyên họ hòa giải với bạn bè thân quyến, dọn sạch cõi lòng để đừng giữ lại dấu vết nào của sự sân giận hay oán ghét. Nếu họ không thể gặp người mà họ có vấn đề, thì hãy gợi ý họ điện thoại hay nói vào máy ghi âm cho người ấy, hay viết một bức thư để xin tha thứ. Nếu họ ngờ vực người kia không tha thứ được, thì ta không nên khuyên họ chạm mặt trực tiếp với người kia ; vì một phản ứng tiêu cực chỉ làm tăng thêm nỗi buồn khổ của họ. Ðôi lúc người ta cần thời gian để tha thứ. Hãy nói họ để lại một bức thư xin lỗi, để ít nhất họ có thể chết trong khi biết mình đã làm hết sức mình, có thể giải tỏa sự gay cấn giận hờn khỏi trái tim họ. Nhiều lúc tôi đã thấy những người trái tim cứng lại vì tự giận và vì mặc cảm phạm tội, cuối cùng chỉ nhờ một hành vi xin lỗi mà đã có được một năng lực và sự bình an không ngờ.

Tất cả mọi tôn giáo đều nhấn mạnh năng lực của tha thứ, và năng lực này không bao giờ cần thiết và được cảm thụ một cách sâu xa cho bằng lúc người sắp chết nhờ tha thứ và được tha thứ, mà đã thanh lọc mình khỏi màn hắc ám và chuẩn bị một cách trọn vẹn cho cuộc hành trình đi qua cái chết.
 
 

Tìm một pháp tu

Nếu người thân bạn đang chết đã quen với một lối thiền định nào đó, thì bạn hãy khuyên y an trú trong thiền ấy càng nhiều càng tốt, và hãy nhập thiền định với họ khi cái chết đến gần. Nếu người sắp chết sẵn sàng chấp nhận một pháp tu, bạn hãy giúp họ tìm một pháp tu thích hợp, giản dị, và cùng thực tập với họ càng thường xuyên càng tốt, và nhẹ nhàng nhắc cho họ thực tập pháp ấy khi cái chết đến gần.

Bạn cần phải phong phú, sáng tạo trong cách giúp đỡ, vào cái lúc cao điểm này, vì rất nhiều chuyện lệ thuộc vào đấy. Toàn thể bầu không khí chết chóc có thể được chuyển hóa nếu người ta tìm được một pháp tu mà họ có thể làm hết mình, trước và trong khi họ chết. Có rất nhiều phương diện của sự tu tập tâm linh, bạn phải sử dụng tính mẫn cảm của bạn để tìm ra phương diện liên hệ tới họ nhiều nhất : hoặc tha thứ (sám hối), hoặc thanh luyện, hoặc hiến dâng, hoặc cảm thấy hiện diện của ánh sáng và tình yêu. Khi bạn giúp họ khởi sự tu tập, hãy tha thiết cầu nguyện cho họ tập luyện thành công, nguyện cho họ có mọi năng lựcđức tin để theo con đường họ chọn. Tôi đã biết có những người ngay cả khi gần chết, đã làm được sự tiến bộ tâm linh rõ rệt nhờ sử dụng một câu chú, một bài kinh hay một sự quán tưởng đơn giản, nhờ vào đó họ đã thực sự liên lạc được với cái tâm của họ.

Stephen Levine kể cho tôi câu chuyện về một phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Bà cảm thấy chới với vì đã bỏ nhà thờ, mặc dù bà sùng kính Chúa Giê-su. Stephen cùng bà ta cố tìm cách nào để bà có thể lấy lại được sức mạnh của lòng tin và sự sùng kính ấy. Bà nhận ra rằng cái điều có thể giúp bà tái lập quan hệ với Chúa để tìm được một ít bình an, tin tưởng trong lúc chết, là liên tục nhẩm lời cầu nguyện : “Xin Chúa Ki-tô hãy thương xót con” . Sự đọc lời nguyện này đã mở lòng bà, làm cho bà khởi sự cảm thấy sự hiện diện của Chúa ở bên bà mãi mãi.
 
 

Pháp chuyển di tâm thức “Phowa”

Pháp tu có giá trị nhất, hiệu lực nhất mà tôi tìm thấy trong lúc săn sóc người hấp hối, là pháp chuyển di tâm thức, Tạng ngữ là phowa. Rất nhiều người hăng hái theo pháp này.

Pháp chuyển di tâm này đã được thực hiện bởi những bạn bè thân quyến hay thầy (của người chết) ở khắp nơi trên thế giới - Úc, Mỹ và AÂu châu. Nhờ năng lực của nó mà hàng ngàn người đã có cơ hội để chết một cách thanh thản. Tôi lấy làm hoan hỷ khi đem trái tim của sự thực hành “chuyển di” này đến cho bất cứ ai cần dùng.

Tôi muốn nhấn mạnh, pháp tu này ai làm cũng được. Nó rất giản dị, nhưng cũng là pháp tu cốt yếu nhất mà ta có thể làm để tự chuẩn bị cái chết cho ta. Và đây là phần thực tập chính thức mà tôi đã dạy cho học trò để giúp người bạn sắp chết của họ, hoặc những bà con thân quyến đã chết.
 
 

Thực tập một :

Trước hết, ngồi thoải mái theo thế ngồi thiền. Nếu bạn làm thực tập này lúc bạn gần chết, thì có thể ngồi kiểu nào thuận tiện cho bạn, hoặc nằm mà tập.

Rồi đưa tâm bạn về nhà, buông xả, thư giãn hoàn toàn.

1- Trong bầu trời trước mặt, bạn hãy triệu thỉnh biểu tượng của chân lý mà bạn tin, dưới dạng ánh sáng tỏa chiếu. Hãy chọn hình ảnh vị Phật hay thần thánh nào bạn thích. Nếu bạn không có liên hệ đặc biệt với một hình ảnh nào cả, thì chỉ tưởng tượng một ánh sáng vàng ròng trong nền trời trước mặt. Ðiểm quan trọng là bạn xem đấy là biểu tượng của chân lý, trí tuệtừ bi của tất cả chư Phật, thánh chúng, các bậc thầy, các bậc đã giác ngộ. Ðừng lo nếu bạn không quán ra hình ảnh được một cách rõ ràng. Chỉ cần bạn làm tràn ngập tim mình với sự hiện diện của Phật, và tin rằng Phật đang ở đấy

2- Rồi tập trung tâm, trí, hồn của bạn vào hiện diện mà bạn đã triệu thỉnh, và cầu nguyện như sau :

Nhờ ân sủng, sự dìu dắt, năng lực ánh sáng tuôn phát từ nơi ngài.

Xin cho tất cả ác nghiệp của con, phiền não nghiệp chướng đều được tịnh trừ.

Xin cho con tự biết đã được tha thứ về tất cả điều hại mà con đã nghĩ và làm.

Xin cho con hoàn tất phép chuyển di sâu xa này, để chết một cái chết an ổn.

Và qua sự chết vinh quang của con, mong con có thể lợi lạc tất cả hữu tình sống hay chết.

3- Bây giờ, hãy tưởng tượng sự hiện diện ánh sáng mà bạn đã triệu thỉnh - do lời cầu nguyện chân thành tha thiết của bạn - liền đáp ứng bằng một nụ cười âu yếm và gởi đến bạn lòng từ bi trong một luồng ánh sáng từ trái tim vị ấy chiếu ra. Khi ánh sáng này chạm tới bạn, vào trong bản thể bạn, thì bao nhiêu ác nghiệp phiền não chướng ngại của bạn, nguyên nhân đau khổ đều được tịnh hóa. Bạn thấy và cảm nhận rằng bạn hoàn toàn chìm ngập trong ánh sáng ân sủng ấy.

4- Bây giờ bạn đã được tịnh hóa, hoàn toàn được chữa lành những đau khổ, nhờ ánh sáng ấy. Hãy xem như chính thân thể do nghiệp sanh của bạn, bây giờ bỗng tan rã hoàn toàn thành ánh sáng.

5- Cái thân bằng áng sáng của bạn bây giờ bay lên hư không và tan hòa trong sự hiện diện của ánh sáng ân sủng trên kia, thành một nhất thể bất khả phân.

6- An trú trong trạng thái nhất thể ấy càng lâu càng tốt.
 
 

Thực tập hai :

1- Muốn thực tập pháp này cách giản dị hơn, hãy bắt đầu như trên, bằng cách nghỉ ngơi yên tĩnh, rồi triệu thỉnh sự hiện diện của chân lý.

2- Tưởng tượng tâm thức của bạn như một trái cầu sáng ở tim, chiếu ra như một vì sao băng, và bay vào tim của sự hiện diện trước mặt bạn.

3- Trái cầu sáng ấy tan ra và hòa nhập với hiện diện ấy.

Qua sự luyện tập này, bạn đặt tâm bạn vào tâm giác ngộ của Phật. Dilgo Khientse Rinpoche nói rằng giống như ném một hòn sỏi vào hồ, nghĩ đến hòn sỏi chìm xuống càng lúc càng sâu. Quán tưởng rằng nhờ ân sủng đó, tâm bạn được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Phật.
 
 

Thực tập ba :

 Phương pháp cốt yếu nhất để tập luyện phép này như sau : chỉ việc hòa tâm bạn vào tâm giác ngộ của hiện diện thuần khiết. Hãy quán : “Tâm con và tâm Phật là một” .

Bạn hãy chọn bất cứ phương pháp nào trong các pháp trên, mà bạn thấy thuận tiện ; hoặc pháp nào hấp dẫn bạn nhất vào một lúc đặc biệt nào đó. Ðôi khi pháp môn hiệu nghiệm nhất có thể lại là pháp môn đơn giản nhất. Nhưng dù chọn cách nào, điều cốt yếu vẫn là bạn cần thời gian tập luyện cho thuần thục. Còn cách nào khác để bạn có được niềm tin cậy mà làm phép Chuyển di cho chính bạn hay người khác vào lúc chết ? Thầy tôi, Jamyang Khientse Rinpoche nói : “Nếu bạn thiền định và tập theo cách ấy luôn luôn thì vào lúc chết, nó sẽ xảy đến một cách dễ dàng”.

Quả thế, bạn cần phải quen thuộc với phép Chuyển di này để cho nó thành một phản xạ tự nhiên, bản tính thứ hai của bạn. Nếu bạn đã xem phim Gandhi, bạn sẽ thấy khi bị bắn, phản ứng lập tức của ngài là kêu lên “Ram... Ram !” (Thượng đế của Ấn giáo). Hãy nhớ, chúng ta không bao giờ biết được khi nào thì mình chết, hoặc biết mìnhthời giờ mà nhớ lại pháp môn nào không. Ta sẽ có bao nhiêu thời giò, chẳng hạn, nếu ta tông chiếc xe hơi của mình vào một xe cam-nhông đang chạy hết tốc lực trên xa lộ ? Khi ấy sẽ không có một giây nào để nghĩ cách nào làm phép Chuyển di, hoặc để xem lại những xách chỉ dẫn trong sách này. Hoặc chúng ta đã thuần thục phép Chuyển di, hoặc là không. Có một cách đơn giản để đo lường điều này : hãy xem phản ứng của bạn khi gặp hoàn cảnh khủng hoảng, hoặc trong một phút kinh hoàng như động đất, hay ác mộng. Bạn có phản ứng bằng phép Chuyển di hay không ? Nếu có, bạn làm với mức độ tin tưởng thế nào, vững vàng thế nào ?

Tôi nhớ một học trò tôi ở Mỹ, có lần cỡi ngựa đi chơi. Con ngựa hất nàng xuống, bàn chân nàng mắc vào sợi dây cương, và nàng bị kéo xềnh xệch trên đường. Tâm trí nàng trống rỗng, nàng cố một cách vô vọng để nhớ lại vài pháp môn nhưng không nhớ được một tí gì. Nàng đâm ra kinh hoàng thất sắc. Một điều tốt về nỗi hoảng sợ này là, nó làm cho nàng nhận chân rằng sự tập luyện cần phải trở thành bản tính thứ hai của mình mới được. Ðây là bài học của nàng phải học, quả thế, là bài học mà tất cả chúng ta phải học. Hãy thực tập Chuyển di càng nhiều càng tốt, cho đến khi bạn bảo đảm có thể phản ứng lại bất cứ biến cố bất ngờ nào, bằng pháp môn ấy. Ðiều ấy sẽ bảo đảm rằng khi cái chết xảy đến, bạn sẽ sẵn sàng.
 
 

Dùng pháp Chuyển di để giúp người sắp chết

Làm sao chúng ta sử dụng pháp này để giúp một người sắp chết ?

Nguyên tắc và thứ tự của sự tập luyện cũng giống như đã nói ; chỉ khác là bạn quán hình ảnh Phật ở trên đầu người sắp chết. Tưởng tượng những tia sáng trút xuống người hấp hối, tịnh hóa bản thể họ, và người ấy đang tan thành ánh sáng, nhập vào ánh sáng của Phật.

Làm pháp này suốt thời gian người thân của bạn bị bệnh, nhất là vào lúc họ thở hơi cuối cùng, hoặc vừa khi ngưng thở, trước khi thân thể họ bị động tới bằng cách nào đó. Nếu người hấp hối biết bạn sắp làm phép ấy cho họ, và đã biết qua pháp môn này, thì điều ấy có thể đem lại cho họ một nguồn cảm hứngan ủi lớn lao.

Hãy ngồi yên tĩnh với người hấp hối, thắp đèn sáng trước một hình ảnh Phật, rồi luyện pháp Chuyển di này cho họ. Bạn có thể tập luyện trong lặng lẽ, không cần người kia biết ; trái lại nếu người kia sẵn sàng - như phần đông người sắp chết - thì bạn chỉ cho họ cách quán tưởng và cùng làm với họ.

Người ta thường hỏi : “Nếu người bà con đang hấp hối của tôi là một người thực hành Ki-tô giáo, còn tôi là Phật tử, thì có mâu thuẩn gì không ?” . Làm sao có mâu thuẩn được ? Bạn đang triệu thỉnh chân lý, và Chúa hay Phật đều là hiện thân đầy từ bi của chân lý, xuất hiện cách cách khác nhau để giúp đỡ con người.

Tôi cực lực đề nghị các bác sĩ, y tá cũng nên tập pháp Chuyển di cho những bệnh nhân đang hấp hối của họ. Hãy tưởng tượng điều ấy sẽ thay đổi bầu không khí trong bệnh viện một cách kỳ diệu thế nào, nếu những người chữa trị cho người hấp hối cũng làm pháp Chuyển di này. Tôi nhớ cái chết của thầy Samten lúc tôi còn bé, hồi đó thầy tôi và các tu sĩ đều giúp ông. Thật là mãnh liệt, nhẹ nhàng làm sao ! Ðiều tôi mong mỏi nhất là ai cũng chết được với niềm bình anân sủng như thầy Samten.

*
 
 

Tôi đã soạn pháp Chuyển di vắn tắt này từ pháp truyền thống đặc biệt của Tây Tạng dành cho người sắp chết. Nó bao gồm tất cả những nguyên tắc quan trọng nhất. Không những nó chỉ là một pháp luyện tập cho người sắp chết, mà còn có thể dùng để tịnh hóa và chữa lành ; nó còn quan trọng đối với người đang sống và người bệnh nữa. Nếu người ốm khỏi bệnh, thì pháp này giúp cho khỏi bệnh ; nếu người ấy chết thì pháp này sẽ giúp chữa lành tâm hồn họ trong khi chết ; nếu người ấy đã chết, thì nó vẫn tiếp tục tịnh hóa người sống cũng như người chết.

Nếu bạn không chắc người bệnh nặng có qua khỏi hay sẽ chết, thì mỗi khi đi thăm, hãy làm pháp này cho họ, và khi về nhà lại làm nữa. Càng làm nhiều lần, thì người sắp chết càng được tịnh hóa. Bạn không bao giờ biết mình có gặp lại họ không, hoặc có hiện diện khi họ chết hay không, bởi thế mỗi lần viếng thăm, bạn nên kết thúc bằng pháp Chuyển di này để chuẩn bị và tiếp tục làm lúc bạn rảnh rỗi.
 
 

Cống hiến cái chết của chúng ta

Trích từ Tử thư Tây Tạng :

“Này thiện nam, nay cái gọi là “chết” đã đến, vậy ngươi hãy có thái độ này : Tôi đã tới thời chết. Bây giờ, qua cái chết này, tôi sẽ giữ thái độ của tâm đã giác ngộ mà thôi, đó là từ và bi, và sẽ đạt giác ngộ hoàn toànlợi lạc cho tất cả hữu tình nhiều vô lượng như không gian...”

Gần đây, một học trò tôi đến nói với tôi : “Bạn tôi mới có 25 tuổi đang đau đớn và sắp chết vì bệnh ung thư máu. Y đã đâm ra cay đắng kinh khủng, và tôi sợ y sẽ bị chết đuối trong nỗi cay đắng. Y cứ hỏi tôi : “Tôi có thể làm gì với tất cả nỗi khổ đau kinh khủng, vô ích này ?”.

Tim tôi hướng về cô và người bạn cô. Có lẽ không gì đau khổ bằng thấy mình chịu khổ đau một cách vô ích. Tôi bảo cô học trò tôi rằng : “Có một cách để bạn cô có thể chuyển hóa cái chết của y ngay bây giờ, ngay trong cơn đau ghê gớm mà y đang chịu đựng : đó là y hãy hiến dâng với tất cả tấm lòng, nỗi khổ của cái chết và chính cái chết của y, cho sự lợi lạchạnh phúc tối hậu của người khác”.

Tôi bảo cô ta hãy nói với y : “Tôi biết bạn đang đau đớn rất nhiều. Hãy tưởng tượng giờ phút này tất cả những người trên thế giới đang đau đớn như bạn, hay còn đau hơn nữa, và để trái tim bạn tràn ngập sự bi mẫn đối với họ. Hãy cầu nguyện rằng sự khổ đau của bạn sẽ giúp làm vơi bớt khổ đau của họ. Bạn hãy lập đi lập lại sự hiến dâng nỗi đau đớn của bạn để làm vơi bớt khổ đau của nhân loại. Và rồi bạn sẽ tìm được ngay trong chính bạn một nguồn năng lực mới, một lòng bi mẫn mà bây giờ bạn khó tưởng tượng nổi, và bạn sẽ có được niềm xác tín không chút nghi ngờ, rằng nỗi đau của bạn không những không vô ích, mà còn mang một ý nghĩa nhiệm mầu” .

Ðiều mà tôi diễn đạt cho người học trò tôi kỳ thực là phương pháp hành trì Tonglen, “chịu thay” , hay “cho và nhận” mà tôi đã trình bày, nhưng nó còn có ý nghĩa đặc biệt đối với người đang mắc bệnh nan y hay sắp chết.

Nếu bạn bị một căn bệnh như Sida hay ung thư, bạn hãy cố hết sức tưởng đến mọi người đồng bệnh với bạn trên thế giới.

Hãy tự nhủ bạn, với lòng bi mẫn sâu xa : “Tôi xin chịu thay đau đớn cho tất cả những ai có căn bệnh hiểm nghèo này. Mong cho họ giải thoát thoát khỏi đau đớn này và khỏi tất cả khổ đau của họ” .

Rồi hãy tưởng tượng những ung nhọt, bệnh tật của người ấy từ giã cơ thể họ dưới dạng khói tan vào ung nhọt, bệnh tật của bạn. Khi thở vào, bạn thở vào tất cả đau đớn của họ, và khi thở ra, bạn thở ra toàn sự khỏi bệnh, sự an lạc. Mỗi khi thực tập, bạn hãy tin chắc bây giờ những người kia đã được chữa khỏi.

Khi bạn gần chết, hãy liên tục nghĩ trong tâm : “Tôi xin chịu thay sự đau khổ, nỗi sợ hãi, cô đơn của tất cả mọi người trên thế giới giờ phút này đang hấp hối, đang chết. Mong tất cả họ đều thoát khỏi đau đớn mê mờ ; mong tất cả họ đều được tiện nghian ổn. Mong sao tất cả đau đớn mà tôi đang chịu và sẽ chịu trong tương lai có thể giúp họ tiến đến một tái sinh tốt đẹpcuối cùng đạt giác ngộ” .

Tôi biết một nghệ sĩ ở Nữu Ước chết vì chứng Sida. Anh ta có thói cay cú và ghét tất cả tôn giáo có tổ chức, mặc dù chúng tôi đều nghĩ thâm tâm anh có nhiều tò mò về tâm linh hơn là anh công nhận. Bạn bè khuyên anh nên đến gặp một bậc thầy Tây Tạng. Ngài hiểu ngay rằng nguyên nhân lớn nhất của nỗi bất mãnđau khổ nơi anh là vì anh cảm thấy nỗi khổ của anh không có lợi gì cho chính anh, hay bất cứ ai. Bởi thế, ngài dạy anh một pháp môn duy nhất : “Chịu thay”, tức Tonglen. Mặc dù lúc đầu hơi hoài nghi, song anh cũng chịu tu tập, và bạn bè thấy anh thay đổi một cách diệu kỳ. Anh nói cho họ biết rằng nhờ pháp “chịu thay” nên nỗi đau đớn mà trước đây anh thấy vô nghĩa, kinh khủng, bây giờ lại đầy mục đích vinh quang. Ai biết anh đều công nhận ý thức mới về mục đích này đã chuyển hóa cái chết của anh như thế nào. Anh chết trong thanh thản, hòa giải với chính mình và với nỗi khổ đau của mình.

Nếu sự tu luyện pháp “chịu thay” này có thể cải hóa một người trước đây chưa từng tu tập, thì thử tưởng tượng với một bậc thầy vĩ đại, nó còn có năng lực biết ngần nào. Khi Gyalwang Karmapa chết ở Chicago vào năm 1981, một môn đệ của ngài kể lại :

“Vào lúc tôi viếng thăm, ngài đã qua nhiều cuộc giải phẫu, vài thân phần bị cắt bớt, nhiều vật khác bỏ thêm vào, máu ngài được chuyền thêm.v.v... Cứ mỗi ngày các bác sĩ lại khám phá thêm một bệnh mới, chỉ để thấy hôm sau nó hoàn toàn biến mất và thay bằng một bệnh khác, dường như tất cả bệnh tật trên thế giới đều có chỗ cư trú trong xương thịt của ngài. Suốt hai tháng liền, ngài không dùng được thực phẩm cứng, cuối cùng bác sĩ cũng hết hy vọng, nghĩ ngài không thể nào sống được nữa nên các bác sĩ định rút ra tất cả máy móc duy trì sự sống của ngài.

Nhưng ngài bảo : “Không, tôi sẽ sống, cứ để vậy”, và ngài vẫn sống, làm cho các bác sĩ kinh ngạc. Ngài lại có vẻ hoàn toàn thoải mái trong hoàn cảnh của ngài - cười pha trò, làm như ngài vui mừng trước mọi sự mà cơ thể ngài chịu đựng. Khi ấy tôi nghĩ, với niềm tin sáng suốt nhất, ngài đã chịu tất cả sự cắt xẻ ấy, chịu mọi xuất hiện của các chứng bệnh trên cơ thể ngài, chịu nhịn đói, bằng một cách hoàn toàn cố ý tự nguyện : rõ ràng ngài đang cố chịu những bệnh tật để giúp giảm thiểu những khổ chiến tranh, đói khát, tật bệnh sắp tới, để tránh nỗi thống khổ kinh hoàng cho nhân loại trong thời đại đen tối này. Ðối với những người có mặt hôm ấy, cái chết của ngài là một cảm hứng khó quên. Nó chứng tỏ một cách sâu xa hiệu lực của pháp, và cái sự kiện đạt giác ngộ vì người khác là chuyện có thực” .

Bây giờ tôi tin chắc một điều, không ai ở đời cần phải chết trong ân hận, cay đắng cả. Không một đau khổ nào, dù kinh hãi tới đâu, là vô nghĩa, nếu sự đau khổ ấy được hiến dâng để giảm thiểu khổ đau của người khác.

Trước mắt chúng ta có những tấm gương cao cả là những bậc thầy tối thượng với tâm đại bi, đã sống và chết với pháp tu “chịu thay”, đem vào đau khổ của tất cả hữu tình khi thở vào, và chan hòa cho nhân loại sự lành mạnh, khỏi bệnh khi thở ra - trọn đời như thế, cho đến khi hơi thở cuối cùng. Lòng đại bi của các ngài mãnh liệt, bao la tới nỗi vào lúc chết, nó mang các ngài tái sinh vào ngay cõi Phật.

Thế giớikinh nghiệm của chúng ta về nhân sinh sẽ được chuyển hóa xiết bao nếu mỗi chúng ta trong suốt cuộc đời và lúc chết, có thể đọc lời nguyện của Shantideva và các bậc thầy của tâm đại bi :

Với những người bơ vơ, tôi xin làm người che chở

Với kẻ lữ hành, tôi xin làm người hướng đạo

Xin được là thuyền, là cầu, là lối đi qua

Cho người muốn đến bờ kia

Mong sao đau khổ của mọi sinh vật

Ðều hoàn toàn chấm dứt.

Mong cho tôi được là y sĩ

Là dược liệu, là người điều dưỡng mọi bệnh nhân

Cho đến khi mọi người đều được chữa khỏi.

Như hư không

Như đất và bốn đại chủng

Mong rằng tôi luôn nâng đỡ sự sống của vô lượng sinh loài

Cho đến khi chúng chết vì đau đớn

Tôi vẫn là nguồn sống

Cho mọi cảnh giới chúng sanh

Ðến tận cùng hư không ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9798)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9965)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9942)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20526)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10360)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9960)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10353)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9939)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34434)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9636)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8718)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9285)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11104)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8526)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9807)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9183)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20462)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19204)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8765)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8876)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12116)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9608)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23012)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9007)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9273)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9976)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9906)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10632)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10931)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12493)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9347)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9203)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9326)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10460)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22016)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22260)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16617)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9547)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10211)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8404)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8843)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8633)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9142)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9616)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8623)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9459)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8635)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8361)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8486)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23645)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9585)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9406)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9012)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8354)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8534)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7895)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7984)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8809)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8941)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10071)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8648)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8635)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30421)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30093)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24187)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9648)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9521)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9514)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7865)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9079)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28232)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23733)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12253)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8888)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14245)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14117)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9665)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9351)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9650)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30915)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27133)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32734)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34019)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27773)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10580)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58717)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10662)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9409)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9570)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13949)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10773)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28176)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23284)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant