Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09 Con đường tâm linh

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11748)
09 Con đường tâm linh


Rumi, bậc thầy đạo Sufisme có viết:

- Bậc thầy nói, có một điều duy nhất trên đời mà ta không bao giờ được quên. Nếu bạn quên hết mọi sự khác, mà không quên điều này, thì sẽ không có gì phải lo, nhưng nếu bạn nhớ thực hành chu tất mọi sự khác mà lại quên mất việc duy nhất này, thì quả thực bạn chưa làm được cái gì. Ví như khi vua sai bạn đến một xứ nọ để làm một công việc đặc biệt nào đó; khi đến, bạn làm cả trăm việc khác, nhưng quên làm cái sứ mạng của mình được sai đi, thì cũng như là bạn chưa làm gì hết. Cũng vậy con người xuất hiện trên đời vì một công việc đặc biệt, đó là mục đích của y. Nếu y không hoàn tất, thì coi như y không làm gì cả.

Mọi bậc thầy tâm linh của nhân loại đều nói cho chúng ta biết cùng một chuyện ấy, rằng mục đích cuộc sống trên trái đất là để thực hiện sự hợp nhất với cái bản chất giác ngộ căn để của chúng ta. “Công việc” mà “vua” đã gửi ta vào cái xứ sở đen tối lạ lùng này là để thực chứngthể hiện con người thật của ta. Có một cách duy nhất để làm việc đó, là khởi sự cuộc hành trình tâm linh, với tất cả hăng say và trí tuệ, can đảmcương quyết để chuyến hóa. Trong Katha Upanishad, thần chết bảo Nachiketas rằng:

- Có con đường trí tuệcon đường vô minh. Hai con đường dẫn đến những mục đích hoàn toàn khác nhau.... Trú trong vô minh, nghĩ mình khôn lanh bác học, những kẻ ngu lang thang không mục đích, như kẻ mù dắt người mù. Những gì nằm bên kia cuộc đời không hiển lộ cho những kẻ khờ khạo, bất cẩn, hoặc bị của cải làm mê hoặc.
 
 

TÌM ĐƯỜNG

Vào thời khác và trong những nền văn minh khác, con đường chuyển hóa tâm linh này chỉ giới hạn cho một số ít người được chọn. Nhưng ngày nay, một tỉ lệ lớn trong loài người cần phải tìm kiếm con đường trí tuệ nếu muốn giữ gìn trái đất khỏi những mối nguy bên trong và bên ngoài đang đe dọa nó. Trong thời đại phân hóa và bạo hành này, tri kiến tâm linh không phải là xa xỉ phẩm dành cho thiểu số chọn lọc, mà là một cái gì cấp thiết cho sự sống còn.

Việc đi theo con đường tâm linh chưa bao giờ lại cấp thiếtgay go hơn bây giờ. Xã hội chúng ta dành hoàn toàn cho sự tôn vinh bản ngã, tôn vinh chính những sức mạnh của tham lamvô minh đang tàn phá quả địa cầu. Chưa bao giờ khó hơn để nghe tiếng nói của chân lý, và chưa bao giờ khó hơn để tuân theo tiếng nói ấy nếu nó được nghe đến. Bởi vì trong thế giới quanh ta không có cái gì hỗ trợ cho sự chọn lựa của ta, và cái xã hội ta sống dường như phủ nhận tất cả mọi ý nghĩa thiêng liêng, vĩnh cửu. Bởi vậy, vào thời gian nguy ngập nhất của chúng ta khi chính tương lai chúng ta cũng thật khả nghi, thì chúng ta, những con người, lại thấy mình đang ở giai đoạn hoang mang nhất, và bị vướng vào một cơn ác mộng do chính chúng ta tạo nên.

Tuy thế vẫn có một nguồn hy vọng đầy ý nghĩa trong tình huống bi đát này, đó là, giáo lý tâm linh của mọi truyền thống mật tông vĩ đại vẫn còn có thể xử dụng. Rủi thay, có rất ít bậc thầy thể hiện được những giáo lý ấy, và hoàn toàn thiếu sự biện biệt nơi những người tầm đạo. Phương tây đã trở thành một thiên đường cho những lang băm về tâm linh. Nếu là lĩnh vực khoa học thì bạn có thể xác thực ai thực ai giả, vì có những nhà khoa học khác kiểm chứng trình độ và những tìm tòi phát minh của họ. Nhưng ở Tây phương, vì không có tiêu chuẩn của một nền văn hóa trưởng thành về trí tuệ, nên tính trung thực của những người được gọi là “đạo sư” hoàn toàn không thể thiết lập được. Dường như bất cứ ai cũng có thể diễn hành tự xưng bậc thầy và lôi cuốn một số tín đồ.

Tây Tạng không có như vậy, nơi người ta nhận thấy bảo đảm hơn nhiều nếu chọn cho đúng một con đường và đúng thầy để theo. Những người đến Tây Tạng lần đầu thường lấy làm ngạc nhiên tại sao người ở đây đặt nặng dòng tu đến thế, đặt nặng sự truyền thừa không gián đoạn từ bậc thầy này đến bậc thầy khác. Dòng tu được dùng làm sự bảo đảm cốt yếu: Nó duy trì tính chân thực và thuần tính của nền giáo lý. Người ta biết được một bậc thầy qua bậc thầy của vị ấy. Đó không phải chuyện giữ gìn một tri thức đã xưa cũ, có tính cách lễ tục, mà một truyền thừa từ tâm sang tâm, từ trí sang trí, một trí tuệ sống và nguyên chất, cùng với những phương pháp thiện xảo.

Nhận ra ai cũng là bậc thầy ai không, làm một công việc tế nhị và đòi hỏi nhiều điều kiện. Nhưng ở thời đại như chúng ta, ham giải trí, ưa những câu trả lời dễ dàng, những giải pháp nhanh, thì những bậc thầy tâm linh đạm bạc không làm bộ, có thể không được ai để ý. Những ý tưởng ta nghĩ về sự thánh thiện có thể làm ta không thấy được biểu hiện của tâm giác ngộ đôi khi rất linh động và lại có vẻ giỡn đùa. Patrul Rinpoche viết:

- Những đức tính kỳ diệu của những vĩ nhân là giấu kín sự thánh thiện của họ, làm cho những người thường như chúng ta không thể thấy, dù ta có nỗ lực xem xét. Ngược lại, ngay cả những lang băm cũng lừa đảo rất tài tình bằng cách ăn nói như những bậc thánh.

Nếu Patrul Rinpoche có thể viết như vậy về thế kỷ trước tại Tây Tạng, thì điều ấy lại càng đúng biết bao trong cảnh hỗn loạn của cái siêu thị tâm linh hiện thời?

Vậy, chúng ta làm thế nào để trong thời đại cực kỳ khả nghi này, có thể tìm ra được niềm tin cậy quá cần thiết cho sự tu tập tâm linh? Theo tiêu chuẩn nào để biết một vị thầy là thực hay dỏm?

Tôi nhớ rõ một lần ở bên vị thầy tôi biết, khi ấy ông hỏi các học trò cái gì đã lôi cuốn họ đến ông, tại sao họ tin cậy ông. Một phụ nữ nói:

- Tôi đã nhận ra rằng điều thầy thực sự muốn, hơn bất cứ gì khác, là muốn cho chúng tôi hiểu và áp dụng giáo lý, và thấy thầy hướng dẫn chúng tôi thật khéo léo để chúng tôi có thể hiểu được.

Một người đàn ông ngũ tuần bảo:

- Không phải những gì thầy biết làm tôi cảm động, mà chính vì thầy thực sự có lòng vị tha và tâm tốt.

Một phụ nữ trung niên nói:

- Tôi đã cố coi thầy như mẹ tôi, cha tôi, bác sĩ tâm thần của tôi, chồng tôi, người yêu tôi; thầy đã lặng lẽ ngồi chứng kiến tất cả tấn tuồng do tôi phóng chiếu ra đó, và không bao giờ bỏ rơi tôi.

Một kỹ sư ngoài hai mươi tuổi nói:

- Điều tôi tìm thấy nơi thầy rất khiêm cung, thầy thực sự mong muốn sự tốt lành nhất cho tất cả chúng tôi, và trong khi thầy làm thầy, thầy vẫn không bao giờ ngưng làm một đệ tử của những bậc thầy.

Một luật sư trẻ nói:

- Đối với thầy, chính nền giáo lý mới là quan trọng nhất. Đôi khi tôi lại còn nghĩ rằng có lẽ cái lý tưởng của thầy là, chính thầy hoàn toàn biến mất, chỉ trao truyền lại những lời dạy càng vô ngã càng tốt.

Một sinh viên khác rụt rè nói:

- Lúc đầu tôi sợ phải mở tôi ra trước thầy. Tôi vẫn quá thường khi bị xúc phạm. Nhưng khi tôi khởi sự thổ lộ tâm can, thì tôi để ý những thay đổi thực sự trong tôi. Dần dần tôi càng biết ơn thầy, vì tôi nhận ra thầy đã giúp tôi nhiều quá. Và rồi tôi khám phá trong tôi một niềm tin cậy sâu xa đối với thầy, sâu hơn tôi có thể tưởng tượng.

Cuối cùng, một chuyên viên điện toán tuổi ngoại tứ tuần, bảo:

- Thầy đã là một tấm gương kỳ diệu cho tôi soi vào, và thầy chỉ cho tôi hai điều: Khía cạnh tương đối về tôi là ai, và khía cạnh tuyệt đối tôi là ai. Tôi có thể nhìn vào thầy và thấy – không phải vì thầy là ai, mà vì những gì thầy phản chiếu lại nơi tôi - tất cả sự rối ren tương đối của tôi, rất rõ ràng. Nhưng tôi cũng có thể nhìn vào thầy và thấy phản ảnh nơi thầy cái tự tánh của tâm, từ đấy mọi sự đang sinh khởi, từng giây phút.

Những câu trả lời trên đây cho ta thấy rằng những bậc thầy thực sự thì tử tế, bi mẫn, không biết mệt trong ước muốn san sẻ bất cứ trí tuệ nào họ có được từ những bậc thầy của họ, không bao giờ lợi dụng hay điều động các đệ tử dưới bất cứ hoàn cảnh nào, không bao giờ bỏ rơi họ, phụng sự cho nền giáo lý vĩ đại hơn là cho mục đích riêng tư, và luôn luôn khiêm hạ. Sự tin cậy chân thực có thể phát triển, và chỉ nên phát triển đối với một người nào bạn biết được, qua thời gian, hội đủ tất cả những đức tính ấy. Bạn sẽ thấy niềm tin ấy trở thành nền tảng của đời bạn, nó vẫn ở đấy để nâng đỡ bạn qua những gian khổ của sống chết.

Trong Phật giáo chúng ta xác định một bậc thầy là chân thực hay không tùy theo sự hướng dẫn của họ có phù hợp với giáo lý Phật dạy hay không. Ta phải luôn luôn nhấn mạnh rằng chính sự thật của giáo lý mới là tất cả tầm quan trọng, chứ không bao giờ quan trọng cá nhân của bậc thầy. Bởi vậy đức Phật đã nhắc nhở chúng ta nguyên tắc Bốn chỗ y cứ (tứ y) là:

· Y pháp bất y nhân: Dựa trên thông điệp của bậc thầy, không phải trên nhân cách của ông;

· Ý nghĩa bất y ngữ: Dựa trên ý nghĩa, không chỉ dựa trên lời;

· Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa: Dựa trên ý nghĩa chân thực, không dựa trên ý nghĩa tạm thời;

· Y trí bất y thức: Dựa trên tâm trí tuệ của bạn, không dựa trên tâm phân biệt thường ngày của bạn.

Bởi thế thật quan trọng để nhớ rằng vị thầy chân thực, như ta sẽ thấy, là phát ngôn viên của chân lý. Quả thế, tất cả chư Phật, đạo sư, nhà tiên tri, đều là những biểu hiện của chân lý ấy, hóa hiện bằng vô số hình dạng khéo léo đầy từ bi để dắt dẫn chúng ta trở về chân tánh của ta qua lời giảng dạy của họ. Bởi vậy, lúc đầu, việc quan trọng hơn việc tìm thầy, là tìm thấy sự thật của giáo lý và sống theo nó. Bởi vì, nhờ bắt liên lạc được với sự thật của giáo lý mà bạn sẽ tìm được liên lạc với một bậc thầy.
 
 

THEO MỘT CON ĐƯỜNG

Tất cả chúng ta đều có cái nghiệp gặp phải môt con đường tâm linh này hay khác, và tôi sẽ khuyên bạn, tự đáy tim tôi, hãy đi theo với sự chân thành trọn vẹn, con đường nào gợi cảm hứng cho bạn nhiều nhất. Hãy đọc kinh sách của tất cả các truyền thống, tìm hiểu các bậc thầy muốn nói gì khi nói giải thoát giác ngộ, và tìm con đường chân lý nào thực sự lôi cuốn bạn nhất. Hãy vận dụng khả năng phân biệt của bạn; con đường tâm linh đòi hỏi nhiều thông minh, nhiều khả năng phân biệt tinh tế hơn bất cứ đường nào khác, vì đó là việc quan hệ đến chân lý tối thượng. Hãy xử dụng lương tri bạn trong mọi lúc. Đến với con đường ấy và biết rõ hành lý bạn mang theo: những thiếu sót, tưởng tượng, yếu đuối, phóng chiếu của tâm thức. Trong khi tự thức được bản tính chân thực của bạn là như thế nào, bạn hãy hòa hợp sự khiêm hạ sát đất với một sự thấm định rõ ràng bạn đang ở đâu trên con đường tâm linh, và những gì còn phải được thấu hiểu và thực chứng.

Điều quan trọng nhất là đừng để vướng vào cái mà tôi thấy khắp nơi ở phương tây, một kiểu “đi chợ tâm linh”: Chạy quanh từ thầy này đến thầy khác, giáo lý này đến giáo lý khác, mà không có một sự dấn mình thực sự vào bất cứ nên giới luật nào. Gần hết mọi bậc thầy tâm linh thuộc mọi truyền thống đều đồng ý rằng điều cốt yếu là phải làm chủ, nắm vững lấy một đường lối tu tập, một con đường đưa đến chân lý, bằng cách tuân theo một truyền thống với tất cả tim óc bạn, đi cho đến cuối cuộc hành trình tâm linh, trong khi vẫn giữ thái độ cởi mở kính trọng đối với tri kiến của các truyền thống khác. Ở Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Khi biết rõ một chuyện thì ta có thể thành tựu được tất cả.” Tư tưởng đặc biệt thời nay là, ta có thể luôn luôn mở ra cho mọi chọn lựa và bởi thế không bao giờ dấn mình vào một cái nào. Nhưng đấy là một trong những ảo tưởng lừa dối nhất trong nền văn hóa hiện nay, một trong những kiểu hiệu nghiệm nhất của bản ngã để phá hỏng sự tu tập của chúng ta.

Khi bạn cứ tiếp tục tìm kiếm mãi, thì chính sự tìm kiếm trở thành một căn bệnh ám ảnh bạn. Bạn trở thành một khách du lịch về tâm linh, đi khắp nơi chốn mà không bao giờ tới một chỗ nào. Như Patrul Rinpoche nói:

- Bạn để con voi của bạn ở nhà mà đi tìm dấu chân của nó ở trong rừng.

Theo một con đường không phải là một kiểu tự giam giữ bạn hay để con đường ấy chiếm độc quyền đối với bạn. Mà con đường ấy là một phương tiện thiện xảo đầy bi mẫn để giữ cho bạn tập trung luôn luôn vào đấy, dù có bao nhiêu trở ngại mà chính bạn và cuộc đời của bạn chắc chắn sẽ xen vào.

Bởi thế, khi bạn đã thăm dò những truyền thống mật tông, hãy chọn một vị thầy và theo sự hướng dẫn của vị ấy. Khởi hành lên đường tu tập là một chuyện, mà có được kiên nhẫn, trì chí, tuệ giác, can đảm và sự khiêm hạ để theo cho đến cùng, là một chuyện khác. Bạn có thể có duyên nghiệp để tìm ra một vị thầy, nhưng khi ấy chính bạn phải tạo ra cái nghiệp để theo vị thầy ấy. Vì rất ít người trong chúng ta biết được làm cách nào để theo thầy, đó là cả một nghệ thuật. Cho nên dù giáo lý có vĩ đại đến đâu, bậc thầy vĩ đại đến đâu, điều cốt yếu vẫn là, bạn phải tìm trong chính bạn cái tuệ giácthiện xảo trong sự tu tập làm sao để yêu mến và tuân theo bậc thầy và giáo lý.

Điều ấy không dễ. Sự việc không bao giờ toàn hảo. Làm sao mà toàn vẹn được, khi chúng ta đang còn ở trong thế giới tương đối của sinh tử. Ngay cả khi bạn đã chọn được một vị thầy và rất chân thành theo giáo lý, bạn vẫn thường gặp phải những rắc rốibất mãn, mâu thuẫn và bất toàn. Đừng ngã quị trước những chướng ngại nhỏ nhen ấy. Đấy chỉ là những cảm xúc trẻ con của bản ngã. Đừng để chúng làm bạn đui mù trước giá trị bền bỉ và tinh túy mà bạn đã chọn được. Đừng để cho sự mất kiên nhẫn của bạn lôi bạn đi xa khỏi sự dấn mình tìm chân lý của bạn. Đã bao nhiêu lần tôi lấy làm buồn khi thấy nhiều người chọn được một giáo lý và bậc thầy, theo học với một niềm hăng say đầy hứa hẹn, mà sau đó lại mất niềm tin khi xảy đến những chướng ngại nhỏ không thể tránh. Họ rơi trở lại vào con đường luân hồi sinh tử, vào những tập quán cũ, và để lãng phí nhiều năm tháng, có lẽ cả cuộc đời họ.

Đức Phật đã dạy trong bài Pháp đầu tiên của ngài, căn nguyên của mọi khổ đau chúng ta trong sinh tửvô minh. Vô minh có vẻ như là bất tận, khi ta chưa giải thoát khỏi nó. Ngay cả khi ta đã lên đường tu tập, sự tìm kiếm của ta cũng vẫn còn bị sương mù vô minh vây phủ. Tuy nhiên, nếu bạn nhớ điều này, và luôn giữ lời Phật dạy trong tâm bạn, thì dần dần bạn sẽ phát triển được trí phân biệt để nhận ra được những mê muội của vô minh, và nhờ vậy chúng không tác hại được sự tu hành của bạn hay làm bạn mất mục tiêu nhắm tới.

Đức Phật dạy, cuộc đời ngắn ngủi như một làn chớp; tuy nhiên, như Wordsworth nói:

- Cuộc đời này thực quá nặng nề: Làm ra tiền và xài tiền cũng đủ làm cho chúng ta tiêu ma hết năng lực.

Chính sự tiêu ma năng lức ấy có lẽ là cái sự nát lòng nhất về đời người: Nó phản bội lại tinh túy của ta, nó để lỡ mất cơ hội quý báucuộc đời này – cõi Bardo tự nhiên – đem lại cho ta, để hiểu được và thể hiện được tự tính giác của ta. Điều mà những bậc đạo sư cốt nói cho ta biết là, ta hãy chấm dứt tự làm cho ta mê muội: Ta đã học được điều gì, nếu vào lúc chết ta không biết mình thực sự là ai? Tử thư Tây Tạng nói:

Tâm nghĩ xa xôi, không nghĩ cái chết sắp đến,

Làm những hoạt động vô nghĩa này,

Rồi trở về hai bàn tay trắng

Thực là mê muội hoàn toàn;

Điều cần là trực nhận bản tâmgiáo lý

Tại sao không tu tập đạo lộ trí tuệ ngay lúc này?

Những lời này từ kim khẩu bậc thánh nói ra:

Nếu bạn không ghi nhớ lời thầy vào tâm khảm

Thì có phải bạn đã tự lừa dối mình?
 
 

BẬC THẦY

Đức Phật dạy trong một mật điển:

- Trong tất cả chư Phật đã đạt giác ngộ, không có một vị nào thành tựu việc này mà không nhờ một bậc thầy, và trong tất cả ngàn vị Phật sẽ xuất hiện trong đại kiếp này, không một vị nào sẽ đạt giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy.

Vào năm 1987, sau khi bậc thầy thân yêu Dudjom của tôi từ trần ở Pháp thì tôi đang ngồi trong xe lửa từ miền Nam nước Pháp nơi ngài ở, để trở về Paris. Trong trí tôi hiện ra muôn ngàn hành vi độ lượng, hiền lànhtừ ái của ngài, tôi rưng nước mắt tự nhủ với mình nhiều lần:

- Nếu không nhờ thầy, thì làm sao con hiểu được?

Tôi nhận chân một cách tha thiết cái điều trước đấy tôi chưa bao giờ biết đến, đó là tại sao truyền thống chúng tôi lại đặt tầm quan trọng thiêng liêng như vậy vào liên hệ thầy trò, và mối liên hệ ấy là thiết yếu như thế nào đối với việc truyền thừa chân lý từ trí sang trí, từ tâm sang tâm. Nếu không có những bậc thầy tôi, thì tôi đã không thể trực nhận chân lý của lời dạy, tôi đã không thể đạt đến tầm mức hiểu biết khiêm tốn mà tôi có được.

Nhiều người Tây phương nghi ngờ thầy, thông thường bất hạnh thay, lại là vì những lý do chính đáng. Tôi không cần phải kể ra đây vô số trường hợp ghê gớm, đáng chán, về sự điên rồi, tham lam, và lường gạt đã xảy ra trong thế giới hiện nay, kể từ khi tây phương mở cửa đón nhận nền minh triết đông phương vào những thập niên 1950 và 1960. Tuy nhiên, tất cả truyền thống trí tuệ lớn, dù là Ki-tô, Sufi, Phật giáo hay Ấn giáo, muốn có năng lực đều phải dựa vào quan hệ thầy trò. Bởi thế điều mà thế giới cấn một cách cấp thiết hiện nay, là sự hiểu biết rõ ràng càng minh bạch càng tốt, một bậc thầy chân thực là gì, và một môn đệ chân thực là gì, và gì là thực chất của sự chuyển hóa xảy ra nhờ lòng tin đối với thầy.

Có lẽ sự mô tả cảm động và chân xác nhất về bản chất chân thực của bậc thầy mà tôi từng nghe, là cách mô tả của thầy Jamyang tôi. Ngài nói rằng mặc dù bản tính chân thực của chúng ta là Phật, song từ vô thỉ nó đã bị che mờ bởi một đám mây đen vô minh mê lầm. Tuy thế, bản tính chân thực ấy, Phật tính của ta, không bao giờ hoàn toàn đầu hàng sự chuyên chế của vô minh, ở đâu đó Phật tính ấy luôn luôn chống lại sự thống trị của vô minh.

Như thế Phật tính của chúng ta có một khía cạnh tích cực, đó là “bậc thầy nội tâm” của chúng ta. Ngay khi chúng ta trở nên mờ mịt, là bậc thầy nội tâm ấy đã làm việc cho chúng ta không biết mỏi mệt, cố đưa chúng ta trở về sự sáng sủa, khoáng đạt của bản thể chân thực chúng ta. Bậc thầy ấy không bỏ rơi ta giây phút nào. Trong lòng từ bi vô lượng như của chư Phật và của các đấng giác ngộ, Phật tính ấy không ngừng hoạt động cho sự tiến hóa của ta - không những đời này mà tất cả đời quá khứ của ta – dùng đủ phương tiện thiện xảo, đủ loại hoàn cảnh để giáo hóa, thức tỉnh chúng ta, và để dẫn chúng ta trở về chân lý.

Khi chúng ta đã cầu nguyện, khát ngưỡng chân lý trong một thời gian dài, qua nhiều đời kiếp, và khi nghiệp ta đã được thanh lọc khá đủ, thì một thứ phép lạ xảy ra. Và nếu ta có thể hiểu và xử dụng phép lạ này, thì nó có thể đưa đến sự vĩnh viễn chấm dứt vô minh: Vị thầy nội tâm, người luôn luôn theo sát chúng ta, xuất hiện dưới hình dạng một “vị thầy bên ngoài”, người mà gần như do một huyễn thuật, ta đã gặp được trong thực tế. Sự gặp gỡ này là quan trọng nhất trong tất cả đời kiếp.

Ai là vị thầy bên ngoài? Không ai khác hơn là hiện thân, là tiếng nói và đại diện của vị thầy bên trong. Vị thầy mà hình dáng con người, tiếng nói con người, và trí tuệ của ông, đã khiến ta thương mến hơn bất cứ người nào khác trong các đời kiếp của ta, người ấy không ai khác hơn là biểu hiện của sự thật huyền bí nội tâm ta. Nếu không thì làm sao giải thích được tại sao cảm thấy liên hệ mãnh liệt đến vị thầy ấy như thế?

Ở tầng mức cao sâu nhất, thầy và trò không thể có sự ngăn cách, vì công việc của thầy là dạy cho ta nhận được thông điệp rõ ràng của vị thầy bên trong tâm ta, và làm cho ta nhận chân được sự hiện diện liên tục của bậc thầy tối hậu ấy ở trong tâm. Tôi cầu cho quý vị có thể thưởng thức được trong đời này, niềm hỉ lạc của mối tương giao hoàn hảo nhất đó.

Không những vị thầy là phát ngôn chính thức của chính vị thầy trong tâm bạn, mà ông còn là người chuyên chở, truyền đạt tất cả những ân phước của các đấng giác ngộ. Đấy là điều làm cho vị thầy của bạn có khả năng phi thường để soi sáng tâm trí bạn. Vị thầy không khác gì hiện thân của cái tuyệt đối, đấy là đường dây điện thoại qua đó tất cả chư Phật và các bậc giác ngộ có thể liên lạc với bạn. Vị thầy là kết tinh của trí tuệ tất cả chư Phật, và hiện thân của lòng từ bi của các ngài luôn luôn hướng về bạn: Ánh sáng của chư Phật nhắm thẳng vào tim óc bạn để giải thoát bạn.

Trong truyền thống chúng tôi xem vị thấy còn tốt hơn cả những vị Phật. Mặc dù lòng từ bi và năng lực chư Phật luôn luôn hiện hữu, song những mê mờ đã ngăn che chúng ta không gặp được chư Phật một cách trực tiếp. Nhưng vị thầy của chúng ta có thể gặp; vị thầy đang ở đó, sống, thở, nói, làm việc. Vị thầy luôn ở trước mắt ta để chỉ cho ta bằng mọi cách có thể, con đường của chư Phật: Con đường giải thoát. Với tôi, những bậc thầy của tôi là hiện thân của chân lý sống, là những dấu hiệu ám chỉ rằng sự giác ngộthể đạt được khi còn thân xác, ngay trong đời này, trong thế giới này, ngay bây giờ và tại đây. Các ngài là những nguồn cảm hứng tối thượng trong việc tu tập của tôi, trong công việc, đời sống của tôi, và trong cuộc hành trình của tôi tiến đến giải thoát. Những bậc thầy đối với tôi là hiện thân của lời nguyện thiêng liêng đặt giác ngộ lên trên hết, cho đến khi tôi thực hiện được nguyện ấy. Tôi biết rằng chỉ khi đạt giác ngộ tôi mới hiểu biết hoàn toàn những vị ấy thực sự là ai, và biết được trọn vẹn lòng độ lượng, từ bi và trí tuê vô biên của các vị.

Tôi muốn san sẻ với các bạn lời cầu nguyện đẹp đẽ sau đây, mà ở Tây Tạng chúng tôi đọc để triệu thỉnh vị thầy trong tâm ta:

Từ đóa sen lòng sùng kính trong tim con

Hỡi Thầy từ bi, chỗ nương cậy duy nhất của con;

Hãy xuất hiện che chở con trong cơn khốn đốn

Bởi các nghiệp quá khứcảm xúc hỗn loạn.

Như viên ngọc an trú trên đầu con, mandala của đại lạc

Khơi dậy tỉnh giácsáng suốt trong con, xin Thầy!
 
 

NĂNG LỰC CỦA LÒNG SÙNG KÍNH

Như Phật đã dạy về các vị Phật đã giác ngộ, không ai là không nương vào một bậc thầy, Ngài còn dạy:

- Chỉ nhờ lòng sùng kính mà thôi, ta có thể thực chứng chân lý tuyệt đối.

Chân lý tuyệt đối không thể thực chứng được trong phạm vi cái tâm thường ngày. Và tất cả truyền thống trí tuệ lớn, đều dạy con đường để vượt ngoài tâm thường ngày là trái tim. Con đường của trái tim là sự sùng kính.

Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Chỉ có một cách duy nhất để đạt giải thoát giác ngộ, đó là theo một bậc thầy chân thực. Thầy là vị hướng đạo giúp ta vượt biển sinh tử.

Như mặt trời, trăng phản chiếu trên mặt nước lặng trong, ân phước chư Phật cũng luôn luôn hiện diện cho những người có lòng tin tuyệt đối. Ánh sáng mặt trời rơi khắp, nhưng chỉ nơi nào có kính hội tụ thì mới đốt được cỏ khô. Khi những tia sáng bao la của tâm Phật từ bi được hội tụ vào tấm gương lớn của lòng tin và sự sùng kính, thì ngọn lửa ân phước sẽ cháy bùng trong bản thể bạn.

Vậy thì điều cốt yếu là biết được sùng kính thực sự có nghĩa gì. Đấy không phải là sự tôn thờ vô ý thức, không phải là bỏ hết trách nhiệm đối với chính bạn, tuân theo một cách mù quáng sự bốc đồng của một người khác. Sùng kính chân thực là một sự luôn sẵn sàng đón nhận chân lý không gián đoạn. Sự sùng kính ấy có gốc rễ trong niềm tri ân kính phục, nhưng sáng suốt và có trí tuệ, có căn cứ.

Khi bậc thầy có thể khơi mở cái tâm sâu xa của bạn, làm cho bạn thấy được tự tính của tâm, thì trong bạn nổi lên một niềm tri ân hoan hỉ đối với người đã giúp bạn thấy được. Vì sự thật mà bạn thấy là những gì mà bậc thầy thể hiện trong con người, trong giáo lý và trong trí tuệ của thầy. Cảm giác chân thực tự nhiên ấy luôn luôn có gốc rễ trong kinh nghiệm nội tâm, và chỉ điều này mới được gọi là sùng kính, Tạng ngữ là Mogu. Mogu nghĩa là “khát khao và kính trọng”: Kính trọng thầy, niềm kính trọng càng tăng khi bạn càng hiểu bậc thầy là ai, và khao khát những gì mà thầy có thể khai thị cho bạn, vì bạn đã biết thầy chính là gạch nối của tâm bạn với chân lý tuyệt đối, hiện thân của tự tính chân thực trong bạn.

Dilgo Rinpoche nói:

- Lúc đầu sự sùng kính này có thể chưa tự nhiên, nên ta phải dùng một số kỹ thuật để giúp ta có được sự sùng kính. Điều chính yếu là phải luôn luôn nhớ những đức tính tuyệt hảo của vị thầy, nhất là lòng tử tế của vị ấy đối với ta. Nhờ liên tục phát sinh niềm tin tưởng, tán thán vị thầy, tận tụy với thầy, mà sẽ có ngày chỉ cần nhớ tên hay nghĩ đến vị ấy cũng đủ dừng lại mọi vọng tưởng của ta, và ta sẽ thấy vị ấy như chính là đức Phật.

Thấy thầy không phải như một con người, mà như chính đức Phật, đó là nguồn gốc của ân phước lớn nhất. Padmasambhava nói:

- Sùng kính tuyệt đối đem lại ân phước lớn lao; không hoài nghi đem lại thành công mỹ mãn,

Những người Tây Tạng biết nếu bạn xem thầy như Phật, thì bạn sẽ nhận được phước của Phật, nhưng nếu bạn xem thầy như một con người mà bạn chỉ được phước của con người. Vậy nếu muốn nhận được năng lực chuyển hóa trọn vẹn của lời dạy của bậc thầy, thì bạn phải khơi mở trong chính mình lòng sùng kính lớn lao nhất. Chỉ khi bạn xem thầy như Phật thì một nền giáo lý như-của-Phật mới đến với bạn từ tâm giác ngộ của bậc thầy. Nếu bạn không thể xem thầy như Phật, mà chỉ xem như người, thì không bao giờ có được ân phước trọn vẹn, và ngay cả nền giáo lý vĩ đại nhất bạn cũng không thể đón nhận được.

Càng tư duy về sự sùng kínhvai trò của nó trong tri kiến về giáo lý, tôi càng nhận sâu xa rằng đấy cốt yếu là một phương tiện thiện xảo để làm cho chúng ta dễ hấp thụ chân lý mà thầy truyền dạy. Những bậc thầy không cần sự tôn thờ của chúng ta, nhưng có xem thầy như Phật sống thì ta mới có thể lắng nghe thông điệp của giáo lýnhất nhất tuân theo những chỉ giáo của họ. Như vậy, có thể nói sự sùng kính là cách thực tiễn nhất để có niềm tôn trọng tuyệt đối và do đó mở lòng ra để đón nhận giáo lý mà bậc thầy truyền đạtthể hiện qua con người của họ. Càng sùng kính, bạn càng mở lòng ra đối với lời giảng dạy, và bạn càng mở lòng ra thì giáo lý càng có nhiều cơ hội để thấm vào tim óc bạn, và nhờ vậy phát sinh một sự chuyển hóa tâm linh toàn diện.

Vậy, chỉ nhờ xem thầy như Phật sống, mà tiến trình “thành Phật” của bạn có thể thực sự bắt đầu và hoàn tất. Khi tâm trí bạn đã hoàn toàn mở ra trong niềm hân hoan, ngạc nhiên, biết ơn đối với sự mầu nhiệmhiện diện của bậc thầy, hiện thân của giác ngộ, thì khi ấy, dần dà trải nhiều năm, có thể xảy ra sự truyền thừa từ tâm trí tuệ của bậc thầy sang tâm của bạn, mở cho bạn thấy ánh quang vinh của Phật tính nơi chính bạn, và cùng với Phật tính ấy là ánh quang vinh của toàn vũ trụ.

Tình sư đệ thân thiết sâu xa nhất ấy trở thành một tấm gương phản chiếu mối tương quan của người đệ tử đối với cuộc đờithế giới nói chung. Bậc thầy trở thành hình ảnh cốt cán trong sự thực hành “tri kiến thuần tịnh,” cao điểm của nó là khi hành giả thấy một cách trực tiếp không còn chút nghi ngờ nào: Thầy là Phật sống, lời thầy là Phật ngôn, tâm thầy là tâm giác ngộ của tất cả chư Phật, mỗi hành động của thầy là một biểu hiện của Phật hạnh, chỗ thầy ở là cảnh giới Phật, và ngay cả những người xung quanh thầy là ánh sáng do trí tuệ của thầy chiếu ra.

Khi những nhận thức như vậy càng ngày càng hiện thựcvững chắc, thì phép lạ trong tâm mà hành giả đã trông ngóng từ bao đời kiếp có thể dần dần xuất hiện: Hành giả khởi sự thấy một cách tự nhiên rằng mình, vũ trụ và tất cả hữu tình trong đó đều trong sáng toàn hảo một cách tự nhiên: Thế là cuối cùng hành giả đang nhìn vào Thực tại với chính con mắt của mình. Bậc thầy, như vậy, là con đường, là phiến đá thử vàng mầu nhiệm để phát sinh một chuyển hóa toàn diện của mọi nhận thức nơi người đệ tử.

Sự sùng kính trở thành phương thức nhanh nhất, giản dị nhất và thuần tịnh nhất để trực ngộ bản tâmvạn pháp trong vũ trụ. Càng tiến trên con đường này, ta thấy tiến trình ấy hỗ tương duyên sinh một cách kỳ diệu: Khi chúng ta cố liên tục phát sinh lòng sùng kính, sự sùng kính ta có được ấy lại phát sinh ra ánh sáng của tự tâm ta; sự thấy được ánh sáng tự tâm lại làm cho ta tăng lòng sùng kính đối với bậc thầy đã khơi niềm cảm hứng cho ta. Như thế là sùng kính tuôn phát từ trí tuệ: Sùng kínhkinh nghiệm về bản tâm trở thành một thực thể bất khả phân, và gợi cảm hứng lẫn nhau.

Thầy của Patrul Rinpoche là Jikmé Gyalwé Nyugu. Trong nhiều năm ngài nhập thất trong một hang động. Một ngày kia khi ngài ra ngoài, mặt trời đang đổ xuống; ngài nhìn lên trời thấy một đám mây đang di chuyển về hướng mà Jikmé Lingpa, bậc thầy ngài đang cư trú. Ngài nghĩ trong tâm, “Thầy ta đang ở nơi kia,” và một niềm khát ngưỡngsùng kính dâng trào trong tâm ngài, mãnh liệt tới nỗi ngài ngã quị. Khi ngài tỉnh dậy, toàn thể tâm giác ngộ của bậc thầy đã được truyền sang cho ngài, và ngài đạt đến trình độ chứng nhập cao nhất, gọi là “Diệt tận định.”
 
 

DÒNG ÂN SỦNG

Những câu chuyện về năng lực của lòng sùng kính và ân phước của bậc thầy không phải là những chuyện chỉ có trong quá khứ. Trong một con người như Khandro Tsering Chodron, bậc nữ đạo sư của thời đại chúng ta, ta có thể thấy được kết quả sự tu tập và sự sùng kính sâu xa đối với bậc thầy là như thế nào. Tính khiêm hạ, giản dị của bà, trí tuệ trong sáng của bà được mọi người Tây Tạng tôn kính, mặc dù bà cố hết sức ở lại trong bóng tối, không bao giờ xuất đầu lộ diện. Bà sống cuộc đời khổ hạnh ẩn cư của một hành giả tu thiền quán ngày xưa.

Tôi thường nghe Khandro nói nhiều lần rằng nếu liên hệ của bạn với thầy bạn được giữ thực sự trong sáng, thì mọi sự trong đời bạn sẽ tốt đẹp. Cuộc đời bà là điển hình cảm động nhất về điều này. Sự sùng kính đã làm cho bà thể hiện được tinh hoa của giáo lý, và tỏa chiếu cho người khác ánh sáng ấm áp của tinh hoa ấy. Khandro không giảng dạy một cách trịnh trọng, kỳ thực bà không nói nhiều; nhưng điều gì bà nói thường rõ rệt một cách sâu xa đến nỗi nó trở thành lời tiên tri. Lắng nghe bà tụng lên những lời kinh, hay thực tập thiền định với bà, bạn được cảm hứng sâu xa tận tâm để. Ngay cả khi đi dạo với bà, hay chỉ ngồi với bà, ta cũng thấy như được tấm trong niềm hỉ lạc mãnh liệt của sự hiện diện ấy.

Vì Khandro rất dè dặt, và vì sự vĩ đại của bà nằm ở tính bình dị, nên chỉ có người nào thực sự trí tuệ mới thấy được bà là ai. Chúng ta sống trong một thời đại mà chỉ những người phô trương mình ra lại thường được thán phục nhiều nhất. Nhưng chính trong những người khiêm cung như Khandro, mà chân lý đang sống thực sự. Nếu Khandro có bao giờ đến giảng dạy ở Tây phương, bà sẽ là một bậc thầy toàn hảo, bậc nữ đạo sư vĩ đại nhất, người nhập thể được một cách huyền nhiệm toàn triệt, đức từ bitrí tuệ của Tara – tâm bi mẫn có tuệ giác được thể hiện qua thân hình một nữ nhân – có năng lực chữa trị tâm linh. Nếu tôi phải chết, mà có Khandro tiếp nối, thì tôi sẽ cảm thấy tin tưởngan tâm hơn bất cứ bậc thầy nào khác.

Tất cả những gì tôi thực hiện được đều là nhờ sùng kính các bậc thầy. Càng ngày tôi càng ý thức rõ với niềm úy phục rằng những ân sủng của các bậc thầy đang làm việc qua tôi. Tôi không là gì nếu không có sự ban ân của thầy, và nếu có điều gì tôi làm được, thì đấy là làm một nhịp cầu giữa bạn và các bậc thầy. Nhiều lần, tôi đã nhận thấy rằng khi tôi nói về các thầy tôi trong các buổi giảng dạy, thì lòng sùng kính của tôi gợi cảm hứng nơi những người nghe, và trong những giây phút kỳ diệu ấy tôi cảm thấy các thầy tôi đang hiện diện, đang ban ân phước và mở những trái tim các học trò tôi, cho họ thấy được chân lý.
 
 

Tôi nhớ ở Sikkim vào thập niệm 1960, sau khi thầy Jamyang tôi chết không bao lâu, Dilgo Khientse Rinpoche đang làm một loạt dài những lễ quán đảnh thuộc giáo lý của Padmasambhava, có thể kéo dài nhiều tháng. Nhiều bậc thầy đang ở trong một tu viện trên ngọn đồi phía sau thủ đô Gangtok, và tôi đang ngồi với Khandro Tsering Chodron và Lama Chokden, phụ tá của thầy Jamyang Khientse và là một thầy nghi lễ.

Chính vào lúc ấy tôi kinh nghiệm được sự thật về cách làm thế nào một bậc thầy có thể truyền phúc lạc của tâm giác ngộ cho đệ tử (truyền tâm ấn). Một ngày, Dilgo Khientse Rinpoche giảng dạy về sự sùng kính và nói về thầy Jamyang Khientse, tuôn ra từ tâm ngài như dòng thác hùng hồn và đầy thi vị tâm linh. Khi nhìn thấy Dilgo Khientse Rinpoche và lắng nghe thầy nói, một cách mầu nhiệm tôi nhớ lại phong thái của chính thầy Jamyang Khientse những lúc thầy giảng giáo lý tuyệt vời một cách thao thao bất tuyệt, như từ một suối nguồn bất tận. Từ từ tôi kinh ngạc nhận thấy cái gì đã xảy đến: Đó là ân sủng tuệ giác của thầy Jamyang Khientse đã được trao truyền trọn vẹn cho pháp tử của ngài, Dilgo Khientse Rinpoche, và giờ đây ở trước chúng tôi, ân sủng tuệ giác ấy đang phát ngôn một cách lưu loát không cần nỗ lực, qua thầy Dilgo Rinpoche.

Sau buổi giảng, khi quay lại Khandro và Chokden, tôi thấy mặt họ đang ràn rụa nước mắt, và bảo:

- Chúng tôi biết Dilgo Khientse là một bậc thầy vĩ đại, và chúng tôi cũng biết người ta thường bảo một vị thầy có thể truyền hết ân sủng tuệ giác cho pháp tử của mình. Nhưng chỉ mới hôm nay, bây giờ và tại đây, tôi mới thực chứng được sự thật ấy có nghĩa gì.

Khi nghĩ lại cái ngày kỳ diệu ấy ở Sikkim, và nghĩ đến những bậc thầy vĩ đại mà tôi đã biết, thì tôi lại nhớ đến những lời này của một bậc thánh Tây Tạng:

- Khi mặt trời sùng kính chói chang (của môn đệ) chiếu trên đỉnh núi tuyết là bậc thầy, thì dòng thác ân sủng của thầy sẽ tuôn xuống.

Tôi lại nhớ đoạn văn của chính Dilgo Khientse Rinpoche đã diễn tả những đức tính cao quí vô biên của bậc thầy một cách hùng hồn hơn bất cứ đoạn văn nào khác:

- Thầy như một con thuyền lớn cho chúng sinh vượt qua đại dương hiểm nghèo của sinh tử, thầy là thuyền trưởng vững vàng hướng dẫn chúng tới bến bờ khô ráo của giải thoát; thầy là cơn mưa dập tắt ngọn lửa não phiền, là ánh nhật nguyệt chói lọi xua tan bóng tối vô minh, là đất kiên cố có thể chuyên chở sức nặng của ác và thiện, một Cây ước ban bố niềm vui tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu, là kho tàng giáo lý thâm diệu bao la, là ngọc châu như ý đem lại tất cả đức tính của chứng ngộ, là cha là mẹ trải lòng thương bình đẳng lên tất cả hữu tình, là con sông lớn của lòng từ, là ngọn núi vươn lên trên mọi lo phiền thế tục, không lay chuyển trước những gió bão của cảm xúc; thầy là vừng mây lớn đem mưa rưới mát những dằn xé của dục vọng. Tóm lại, thầy ngang với tất cả chư Phật. Chỉ cần liên lạc với bậc thầy bằng bất cứ cách nào, hoặc trông thấy thầy, hoặc nghe giọng nói của thầy, hoặc được thầy lấy tay sờ đầu, hoặc nhớ đến thầy, cũng sẽ đưa ta đến giải thoát. Hoàn toàn đặt tin tưởng nơi bậc thầy, đó là cách bảo đảm nhất để có tiến bộ trên đường chứng đắc tuệ giác. Sự ấm áp của trí tuệtừ bi của thầy sẽ làm tan những cấu uế trong người ta và giải tỏa được chất vàng ròng của Phật tính trong ta.

Tôi đã ý thức được niềm ân sủng mà các bậc thầy tôi rót vào tâm tôi mà tôi hầu như không hay biết. Từ ngày Dudjom Rinpoche chết, những học trò tôi bảo rằng những lời giảng dạy của tôi trở nên lưu loát rõ ràng hơn. Cách đây không lâu, sau khi nghe Dilgo Khientse Rinpoche giảng một bài pháp hay đặc biệt, tôi đã bày tỏ lòng thán phục của tôi và nói:

- Thật như là một phép lạ, khi những lời giảng tuôn ra từ tâm trí tuệ của ngài một cách tự nhiên không nỗ lực.

Thầy nhẹ nhàng ngả về phía tôi và nói, với một ánh mắt trêu chọc:

- Và mong sao những lời dạy của con bằng tiếng Anh cũng tuôn ra dễ dàng trôi chảy như vậy.

Từ đấy trở đi, tự nhiên tôi có cảm giác cái khả năng diễn đạt giáo lý nơi tôi trở nên tự nhiên hơn, hoàn toàn không do luyện tập. Tôi xem quyển sách này như một biểu hiện của niềm ân sủng từ những vị thầy tôi, được truyền từ tâm trí tuệ của bậc thầy và vị đạotối hậu là Padmasambhava. Vậy, quyển sách này là tặng phẩm của các ngài đến cho bạn.

Chính niềm sùng kính đối với những bậc thầy đã đem lại cho tôi sức mạnh để giảng dạy, và tâm hồn rộng mở, tính cảm thụ sâu xa để học hỏi và luôn luôn học hỏi. Chính thầy Dilgo Khientse Rinpoche cũng không bao giờ ngưng học hỏi một cách khiêm hạ từ những bậc thầy khác, phần lớn là từ chính những đệ tử của ngài. Bởi thế, niềm sùng kính gợi cảm hứng cho sự giảng dạy cũng là sự sùng kính đem cho ta tính khiêm hạ để tiếp tục học hỏi. Vị đại đệ tử của Milapera là Gampopa đã hỏi thầy mình lúc chia tay:

- Khi nào thì đúng lúc con nên khởi sự dìu dắt đệ tử?

Milapera trả lời:

- Khi con không phải như con bây giờ, khi toàn thể nhận thức của con đã được chuyển hóa, và con có thể thấy, thực sự thấy, cái ông già trước mặt con không ai khác hơn là chính đức Phật. Khi lòng sùng kính đã đem lại cho con giây phút nhận thức được như thế, cái lúc ấy sẽ là dấu hiệu chứng tỏ thời gian ra giáo hóa của con đã đến.

Giáo lý này đã đến với bạn từ tâm giác ngộ của Padmasambhava xuyên qua hàng bao thế kỷ, trên ngàn năm, qua một dòng truyền thừa không gián đoạn gồm những bậc thầy mà mỗi vị đều trở thành bậc thầy chỉ nhờ đã biết khiêm hạ làm đệ tử, và vẫn luôn luôn, trong ý nghĩa sâu xa nhất, là đệ tử của những bậc thầy họ suốt cả đời. Ngay cả vào lúc ngài đã tám mươi hai tuổi, mỗi khi Dilgo Khientse Rinpoche nói về Thầy mình là Jamyang Khientse Rinpoche, mắt ngài đều rướm lệ, những giọt nước mắt của niềm tri ânsùng kính. Trong bức thư cuối cùng gửi cho tôi trước khi chết, ngài đã ký tên là “Đệ tử đệ nhất.” Điều ấy chứng tỏ cho tôi thấy thực vô tận thay lòng sùng kính chân thực, và cùng với sự chứng ngộ cao nhất cũng phát sinh niềm sùng kính lớn nhất và niềm tri ân toàn vẹn nhất, vì nó đầy cả đức khiêm cung.
 
 

PHÉP ĐẠO SƯ DU GIÀ; HÒA VỚI TÂM TRÍ TUỆ CỦA BẬC THẦY

Tất cả chư Phật, Bồ tát và những bậc giác ngộ luôn luôn hiện diện để giúp chúng ta, và chính nhờ hiện diện của bậc thầy mà tất cả ân sủng của Phật, Bồ tát được tập trung trực tiếp trên ta. Những người đã biết Padmasambhava thì biết sự thật của lời hứa mà ngài đã lập trên ngàn năm trước:

- Tôi không bao giờ xa các người có đức tin, hay cả đến những người không có đức tin, mặc dù họ không trông thấy tôi. Những người con của ta sẽ luôn luôn được lòng từ bi của tôi che chở.

Chúng ta chỉ cần xin cầu nếu muốn được giúp đỡ trực tiếp. Há không phải Ki-tô cũng nói:

- Hãy xin, ngươi sẽ được cho; hãy tìm kiến, ngươi sẽ gặp; hãy gõ, và cửa sẽ được mở cho ngươi. Ai xin đều nhận được, ai tìm đều gặp được.

Tuy thế, hỏi xin là điều khó khăn nhất đối với chúng ta. Tôi nghĩ nhiều người trong chúng ta hoàn toàn không biết làm thế nào để hỏi. Đôi khi vì ta kiêu căng, đôi khi vì ta không muốn được giúp đỡ, đôi khi vì ta biếng nhác, đôi khi vì tâm ta bận rộn đủ thứ vấn đề, lo ra, và mờ mịt đến nỗi ta không bao giờ nghĩ đến chuyện giản dị là hỏi. Khúc quanh quan trọng trong bất cứ sự cai rượu hay cai nghiện nào, là khi những người nghiện chấp nhận họ có bệnh và xin được giúp đỡ. Có thể nói chúng ta đều là những kẻ nghiện sinh tử; cái lúc sự giúp đỡ có thể đến với ta là lúc ta công nhận mình có bệnh nghiện và chỉ có việc xin cầu giúp đỡ.

Điều ta cần hơn bất cứ gì, là tính can đảm và khiêm hạ thực sự để cầu xin sự giúp đỡ, từ đáy tim ta cầu xin lòng từ bi của các bậc giác ngộ, cầu sự gạn lọc và chữa lành, cầu được khả năng hiểu thấu ý nghĩa của khổ đau và chuyển hóa nó; cầu xin trên bình diện tương đối, được tăng trưởng sự sáng suốt, bình an, khả năng phân biệt, và cầu được chứng ngộ bản chất tuyệt đối của tâm, nhờ tan hòa vào cái tâm giác ngộ bất tử của bậc thầy.

Để có được sự giúp đỡ của chư Phật, để khơi dậy lòng sùng kínhtrực nhận bản tính tự tâm, không có pháp môn nào nhanh hơn, cảm động hơn và hiệu lực hơn pháp môn Đạo sư Du già. Dilgo Khientse Rinpoche viết:

- Danh từ Guru Yoya có nghĩa là “hợp nhất với đấng đạo sư,” và trong sự thực tập này, chúng ta được cho những phương pháp để hòa nhập tâm mình với tâm giác ngộ của bậc thầy.

Hãy nhớ rằng bậc thầy - đạo sư - thể hiện sự kết tinh của những ân sủng của tất cả chư Phật, tất cả bậc thầy, và các bậc đã giác ngộ. Bởi thế triệu thỉnh bậc thầy cũng là triệu thỉnh tất cả; và hòa nhập tim óc bạn với chân lý và với chính hiện thân của giác ngộ.

Bậc thầy bên ngoài trực chỉ cho bạn chân lý về bậc thầy bên trong bạn. Chân lý ấy càng được khải thị qua lời dạy bậc thầy, qua cảm hứng từ bậc thầy, thì bạn càng nhận ra rằng bậc thầy bên ngoài và bên trong bạn là bất khả phân. Khi bạn dần dần khám phá ra chân lý này cho chính bạn, qua phương pháp triệu thỉnh trong lối thực hành phép Đạo sư Du già, thì một niềm tin tưởng, tri ân, hỉ lạc và sùng kính phát sinh trong bạn, qua đó tâm bạn và tâm giác ngộ của bậc thầy thực sự trở thành bất khả phân. Dilgo Khientse Rinpoche có soạn theo yêu cầu của tôi trong một thời thực tập Đạo sư Du già như sau:

Cái gì hoàn tất sự thanh lọc lớn lao của nhận thức

Chính là sự sùng kính, ánh sáng của Tự tâm chiếu ra

Nhận chân, và nhớ rằng tự tâm ta chính là bậc thầy –

Qua điều này, mong rằng tâm con và ta hòa làm một.

Đó là lý do tất cả truyền thống trí tuệ của Tây Tạng đều đặt tầm quan trọng vào phép thực hành Đạo sư Du già, và tất cả những bậc thầy đều xem đấy là pháp môn tâm đắc nhất của họ. Dudjom Rinpoche viết:

- Điều cốt yếu là đặt tất cả nghị lực của bạn vào Đạo sư Du già, bám lấy pháp này xem như sự sống, như trái tim của sự tu luyện. Nếu không vậy, thì thiền định của bạn sẽ cùn nhụt, và dù bạn có làm được chút tiến bộ, cũng không chấm dứt được những chướng ngại, và sẽ không có khả năng để sự chứng ngộ chân thực phát sinh trong tâm bạn. Bởi thế, nhờ tha thiết cầu nguyện với sự sùng kính không giả tạo, mà sau một thời gian ân sủng trực tiếp từ tâm giác ngộ của bậc thầy sẽ truyền vào bạn, gia trì cho bạn sự thực chứng vượt ngoài mô tả, phát sinh từ trong tâm khảm của bạn.

Điều mà tôi sẽ đem lại cho bạn bây giờ là một phép đơn giản để thực hành Đạo sư Du già mà người theo tôn giáo nào cũng có thể tập. Đây là pháp tu chính yếu của tôi, là trái tim và cảm hứng của cả đời tôi. Mỗi khi tôi thực hành pháp này, thì Padmasambhava chính là người mà tôi tập trung vào. Khi đức Phật nhập niết bàn, ngài có tiên đoán rằng Padmasambhava sẽ ra đời để gieo rắc giáo lý mật tông. Như tôi đã nói, chính Padmasambhava là người thiết lập đạo PhậtTây Tạng vào thế kỷ thứ tám. Đối với người Tây Tạng chúng tôi, thì Padmasambhava, Bậc thầy yêu quý, là hiện thân của một nguyên lý rộng lớn không có thời gian. Ngài là bậc thầy của tất cả. Ngài đã xuất hiện vô số lần cho các bậc thầy của Tây Tạng thấy. Những linh kiến này, những cuộc gặp gỡ này đã được ghi chép rõ ngày tháng, nơi chốn và cách xuất hiện, cùng với những giáo lýlời tiên tri mà ngài cho biết. Ngài cũng đã để lại hàng ngàn giáo lý cho đời sau, được hiển thị nhiều lần bởi nhiều bậc thầy vĩ đại hậu thân của ngài. Một trong những giáo lý ngài để lại ấy là Tử thư Tây Tạng.

Tôi luôn luôn cầu Padmasambhava trong những lúc gặp khó khăn khủng hoảng, và ngài không bao giờ không ban ân sủngnăng lực cho tôi. Khi tôi nghĩ về ngài, thì các bậc thầy của tôi đều là hiện thân của ngài. Đối với tôi thì ngài hoàn toàn sống động vào mọi lúc, và lúc nào toàn vũ trụ cũng chiếu sáng với vẻ đẹp, năng lựchiện diện của ngài.

Ôi hỡi Đạo sư, Bậc thầy tôn quý,

Ngài là hiện thân của từ bi

ân sủng của tất cả chư Phật,

Là đấng che chở tất cả hữu tình

Thân con, tài sản con, tim con, linh hồn con

Tất cả, con xin dâng lên ngài

Từ giờ phút này đến khi con đạt giác ngộ,

Trong hạnh phúc hay đau buồn,

Trong hoàn cảnh tốt hay xấu, lên cao hay xuống thấp

Con hoàn toàn nương tựa vào ngài, hỡi đấng Liên Hoa Sanh,

Người biết con: hãy thương tưởng, dìu dắt con, làm cho con trở thành một với ngài.

Tôi xem Padmasambhava như là nhập thể của tất cả bậc thầy tôi, bởi thế khi tôi hòa nhập tâm tôi với Ngài trong phép Đạo sư Du già, thì tất cả bậc thầy của tôi đều bao hàm trong đó. Tuy nhiên, bạn có thể dùng bất cứ một vị đã giác ngộ nào, bậc thánh, hay bậc thầy từ bất cứ tôn giáo nào hay truyền thống nào mà bạn cảm thấy sùng kính, dù họ còn sống hay đã chết.

Pháp ĐạoDu già này có bốn giai đoạn chính: Triệu thỉnh; hòa nhập tâm bạn với bậc thầy qua tinh túy của vị ấy là thần chú; nhận sự gia trì hay ân sủng; hòa nhập tâm bạn với bậc thầy và an trú trong bản tính tự nhiên Rigpa.

1. Triệu thỉnh.

Ngồi yên lặng. Từ đáy sâu của tim bạn, hãy gợi ra những bầu trời trước mặt bạn hiện thân của chân lý dưới hình thức của bậc thầy bạn, hay một vị thánh, hay một người đã giác ngộ.

Cố quán tưởng bậc thầy hay đức Phật ấy đang sống, tỏa chiếu ánh sáng trong suốt như cầu vồng. Hãy tin tưởng, với niềm tin tuyệt đối, rằng tất cả niềm ân sủng và đức tính của trí tuệ, từ bi, và năng lực của tất cả chư Phật đều được nhập thể trong vị ấy.

Nếu bạn thấy khó mà quán tưởng bậc thầy, thì hãy tưởng tượng hiện thân của chân lý như là một thực thể thuần ánh sáng, hoặc cảm thấy sự hiện diện toàn vẹn của bậc thầy ở đấy trong bầu trời trước mặt bạn; đó là hiện diện của tất cả chư Phật và các bậc thầy. Hãy để cho nguồn cảm hứng, hỉ lạc, úy phục mà bạn cảm thấy lúc đó thay cho sự quán tưởng. Chỉ cần tin tưởng rằng sự hiện diện mà bạn triệu thỉnh đã thực sự ở đấy. Chính đức Phật cũng đã nói:

- Kẻ nào nghĩ đến ta, là ta đã ở trước mặt kẻ ấy.

Thầy tôi Dudjom Rinpoche thường nói không hề gì nếu lúc đầu bạn không thể quán tưởng; điều quan trọng là cảm thấy sự hiện diện trong tim bạn, và biết rằng hiện diện ấy là hiện thân của ân sủng, từ bi, năng lựctrí tuệ của tất cả chư Phật.

Rồi, khi thư dãn và để tim bạn tràn đầy hiện diện bậc thầy, bạn hãy triệu thỉnh vị ấy một cách tha thiết thành khẩn trong tâm:

- Xin giúp con, làm cho con thanh tịnh tất cả phiền não nghiệp chướng, để chứng ngộ bản tâm.

Đoạn với niềm sùng kính sâu xa, hãy hòa nhập tâm bạn với bậc thầy, và an trú tâm bạn trong tâm giác ngộ của thầy. Và khi bạn làm như thế, bạn hãy hoàn toàn quy phục nơi thầy, tự nhủ:

- Xin giúp con, săn sóc con. Cho con tràn ngập niềm vui và năng lực của ngài, trí tuệ của ngài. Hãy thâu tóm con vào trong tâm giác ngộ của ngài. Hãy ban cho con ân sủngtrí tuệ.

Khi ấy thì “chắc chắn sự gia trì sẽ được rót vào tâm bạn,” Dilgo Khientse Rinpoche nói.

Khi chúng ta khởi sự pháp tu này, thì đấy là một cách trực tiếp, thiện xảohiệu nghiệm để mang ta ra khỏi tâm phàm phu và nhập vào lĩnh vực thanh tịnh của trí giác Rigpa, ở đấy chúng ta sẽ khám phá rằng tất cả chư Phật đều hiện diện.

Bởi thế, pháp môn này thực sự chuyển hóa được tâm bạn. Khi bạn triệu thỉnh Phật, thì Phật tính của tự tâm bạn có thể được đánh thứckhai ngộ, tự nhiên như một đóa hoa dưới ánh mặt trời.

2. Đào sâu và làm chín mùi ân sủng.

Khi đến giai đoạn này của sự tu tập, hòa lẫn tâm tôi với bậc thầy qua câu thần chú, tôi đọc câu chú:

- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.

Mà tôi tưởng như là Padmasambhava thực sự, và là ân sủng của tất cả những bậc thầy, dưới hình thức âm thanh. Tôi tưởng tượng toàn thân tôi tràn ngập hiện diện của ngài, và câu thần chú tinh túy của ngài, đang ngân vang và thấm khắp người tôi, như thể hàng trăm Padmasambhava dưới dạng âm thanh đang lưu hành trong tôi, chuyển hóa toàn bản thể tôi.

Vậy, dùng câu chú, dâng hiến tim và hồn của bạn trong niềm sùng kính nhất tâm, hòa tâm bạn với Padmasambhava hay bậc thầy của bạn. Dần dà bạn sẽ thấy mình đến gần Padmasambhava hơn, và lấp khoảng trống ngăn cách tâm bạn với tâm giác ngộ của ngài. Dần dần, nhờ năng lực của thực tập này, bạn sẽ thực sự kinh nghiệm tâm mình được chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Padmasambhava và bậc thầy; bạn bắt đầu nhận chân được tính bất khả phân của hai tâm ấy. Như khi thọc ngón tay vào nước thì ướt, vào lửa thì nóng, cũng vậy nếu bạn để tâm bạn vào tâm giác ngộ của chư Phật, thì tâm bạn sẽ chuyển thành bản chất giác ngộ của chư Phật. Dần dần tâm bạn tự thấy mình ở trong trạng thái tự tính tâm, Rigpa, vì tự tính tâm sâu xa nhất, không khác gì tâm giác ngộ của tất cả chư Phật. Nó giống như thể tâm phàm phu của bạn dần dần tan biến, và sự tỉnh giác thuần tịnh, Phật tính của bạn, bậc thầy bên trong, hiển lộ. Đây là ý nghĩa chân thực của “ân sủng”, một sự chuyển hóa trong đó tâm bạn siêu việt vào trạng thái tuyệt đối.

Sự chín mùi của ân sủng này là trọng tâm, phần chính của sự tu luyện, phần mà bạn cần dành nhiều thì giờ nhất, khi bạn thực hành pháp Đạo sư Du già.

3. Gia trì.

Bây giờ, bạn hãy tưởng tượng, từ nơi bậc thầy, hàng ngàn ánh sáng rực rỡ tuôn tràn về phía bạn, thâm nhập vào người bạn, tịnh hóa, chữa lành, ban ân sủng, gia trì cho bạn và gieo vào tâm bạn những hạt giống giác ngộ. Để cho sự tu tập này càng thêm phong phú, bạn có thể tưởng tượng nó mở ra trong ba giai đoạn:

Trước hết, ánh sáng chói chang như pha lê màu trắng tuôn ra từ trán của vị thầy và đi vào luân xa ở trán bạn, tràn ngập toàn thân bạn. Ánh sáng trắng này tượng trưng ân sủng của thân Phật: Nó thanh lọc tất cả những ác nghiệp mà bạn đã tích lũy do thân ác hành; nó tịnh hóa những huyệt đạo vi tế của hệ thống tâm-vật-lý của bạn; nó đem lại cho bạn phúc lạc của Phật thân, nó gia trì năng lực cho bạn thực hành quán tưởng; và nó mở ra cho bạn sự chứng ngộ năng lực từ bi của tự tánh tâm, hiển lộ nơi mọi sự vật.

Kế đến, một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ yết hầu của vị thầy, đi vào luân xa yết hầu của bạn, tràn ngập thân thể bạn. Ánh sáng đỏ này tượng trưng ân sủng của Lời chư Phật: Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đã tích lũy qua ngữ ác hành; nó thanh lọc nội khí của hệ thống tâm-vật-lý bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng ngữ nghiệp của chư Phật; nó gia trì năng lực cho bạn thực hành thần chú; và mở ra cho bạn chứng ngộ ánh sáng của tự tánh Rigpa.

Thứ ba, một luồng ánh sáng màu xanh như ngọc lưu ly tuôn phát từ tim của bậc thầy vào luân xa ở tim bạn và tràn ngập người bạn. Ánh sáng xanh này tượng trưng cho ân sủng từ tim của chư Phật. Nó lọc sạch tất cả ác nghiệp bạn đã tích lũy qua ý ác hành; nó tịnh hóa khí lực trong cơ thể tâm vật lý của bạn; nó đem lại cho bạn ân sủng của tâm Phật; nó gia trì cho bạn trong các thực tập yoga cao cấp; và mở ra cho bạn chứng ngộ sự thanh tịnh nguyên ủy của tự tính tâm Rigpa.

Bây giờ, bạn hãy nhận biết rằng bạn đã được gia trì qua sự ban ân sủng, bằng thân, lời, ý không thể phá hoại của Padmasambhava, của tất cả chư Phật.

4. An trú trong Rigpa.

Bây giờ, hãy để cho vị thầy tan thành ánh sáng và nhập làm một với bạn, trong tự tính tâm bạn. Hãy nhận chân không nghi ngờ rằng bản tính như bầu trời của bạn chính là vị thầy tuyệt đối. Tất cả chư Phật ở đâu, nếu không phải ở trong Rigpa, tự tính tâm bạn?

Được bảo đảm trong nhận thức ấy, trong một trạng thái thoải mái khoáng đạt, bạn an trú trong sự ấm áp quang vinhphúc lạc của bản thể tuyệt đối trong bạn. Bạn đã đạt đến nền tảng nguyên thủy: Sự trong sáng nguyên ủy và tính giản dị tự nhiên. Khi bạn an trú trong trạng thái Rigpa ấy, bạn sẽ nhận chân sự thật của lời dạy Padmasambhava:

- Tâm chính là Padmasambhava; không có thực hành thiền định nào ngoài tâm ấy.
 
 

Tôi đã trình bày pháp tu ấy ở đây, như một thành phần của cõi trung gian tự nhiên của đời này, bởi vì đấy là thực tập quan trọng nhất trong đời, và bởi thế quan trọng nhất vào lúc chết. Phép Đạo sư Du già, như bạn sẽ thấy ở chương mười ba, “Giúp đỡ tinh thần cho người hấp hối,” là nền tảng của phép Chuyển di tâm thức, phowa, vào lúc chết. Vì nếu vào lúc chết, bạn có thể đầy tin tưởng, hợp nhất tâm bạn với tâm giác ngộ của bậc thầy, và chết trong niềm bình an ấy, thì tôi xin hứa và bảo đảm với bạn là mọi sự sẽ tốt đẹp.

Vậy công việc của ta trong đờithực tập nhiều lần, sự hòa nhập với tâm giác ngộ của bậc thầy, làm sao để nó trở thành một việc tự nhiên đến nỗi mọi hoạt động hàng ngày - ngồi, đi, đứng, ăn, uống, ngủ, mộng – càng lúc càng thấm nhuần sự hiện diện sống động của bậc thầy. Dần dần, sau nhiều năm tập trung sùng kính, bạn bắt đầu biết và trực nhận được rằng tất cả tướng thế gian đều hiển bày trí giác của bậc thầy. Mọi hoàn cảnh trong đời – ngay cả những hoàn cảnh đã từng có vẻ bi thương, vô nghĩa, hãi hùng – bây giờ càng ngày càng tỏ lộ cho bạn thấy chính là sự giáo hóa trực tiếp và là ân sủng của bậc thầy, và thầy nội tâm. Như Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Sùng kínhtinh túy của con đường tu tập, và nếu trong tâm ta không có gì ngoài bậc thầy, không cảm thấy gì ngoài sự sùng kính nhiệt tâm, thì bất cứ gì xảy đến đều được xem như ân sủng của thầy. Nếu chúng ta chỉ thực hành với sự sùng kính luôn luôn hiện diện này, thì đây chính là sự cầu nguyện.

Khi tất cả mọi ý nghĩa đều thấm nhuần sự sùng kính đối với bậc đạo sư, thì có một niềm tin tưởng tự nhiên rằng, không cần phải lo bất cứ gì xảy đến. Mọi sắc tướng đều là bậc đạo sư, mọi âm thanh đều là lời cầu nguyện, và mọi ý tưởng thô hoặc tế đều là sự sùng kính. Mọi sự vật khi ấy được giải phóng một cách tự nhiên vào bản chất tuyệt đối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9798)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9965)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9942)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20529)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10360)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9964)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10354)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9939)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34434)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9636)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8718)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9285)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11104)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8526)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9807)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9183)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20463)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19204)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8765)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8876)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12116)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9608)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23013)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 9007)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9273)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9976)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9906)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10632)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10937)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12493)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9347)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9204)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9326)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10460)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22016)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22260)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16618)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9548)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10212)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8404)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8294)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8844)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8637)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12277)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9142)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9616)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8625)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9459)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8635)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8361)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8486)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10196)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23645)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9585)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9415)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9013)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8354)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8534)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7895)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7984)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8809)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8941)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10071)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8648)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8635)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30422)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30095)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24188)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9280)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9648)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9521)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9514)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7865)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9079)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28232)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23733)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12253)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8889)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14246)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14117)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9665)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9357)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9659)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30916)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27133)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32735)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34020)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27774)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10580)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58719)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10669)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9410)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9570)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13949)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10774)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28178)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23285)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant