Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phần Dẫn Nhập

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9504)
1. Phần Dẫn Nhập


1

PHẦN DẪN NHẬP


Giống như việc nhào nắn bột bằng tay
Chắc chắn bạn chuyển hóa được tâm bạn theo cách bạn muốn.

KHAI MỞ CÁNH CỬA PHÁP

NĂM 1974, khi đang ở trong hang động trước đây là nơi Lawudo Lama ẩn tu trong vùng Solu Khumbu ,Nepal, tôi (Lama Zopa Rinpoche-ND) quyết định xem lại tất cả các kinh sách của ông. Hầu hết là kinh sách thuộc truyền thống Nyingma (cổ mật) liên quan đến việc tu tập các hộ pháp bổn tôn (deity), nhưng có một luận giảng mà nó là nền tảng của cả bốn truyền thống Phật giáo Tây tạng; đó là tác phẩmKhai mở Cánh cửa Pháp: Giai đoạn Đầu của việc Tu Tâm trên đường Đạo từng Bước đến Giác Ngộ”.

Được coi như bộ tuyển tập các lời khuyên dạy của nhiều Geshes Kadampa, cuốn Khai mở Cánh cửa Pháp được biên soạn bởi Lodro Gyaltsen, một đệ tử của Lama Tsong Khapa và đồng thờiđệ tử của Khedrub Rinpoche.Ngài Khedrub là một trong hai trưởng tử tâm linh của Lama Tsong Khapa. Cuốn sách này trình bày giai đoạn khởi đầu của việc chuyển hóa suy nghĩ, tức luyện tâm – nói cách khác, đây là việc đầu tiên cần thực hành nếu bạn muốn tu tập Pháp.

Chỉ đến khi đọc được cuốn sách này tôi mới biết đích thực việc thực hành Pháp là như thế nào. Cả quãng đời trước đó tôi đã không biết được như thế. Thông thường, việc thực hành Pháptụng kinh, nghiên cứu, ghi nhớ, thảo luận, đọc lời cầu nguyện, hành lễ, vân vân. Nhưng chỉ đến khi đọc cuốn sách này tôi mới biết được việc thực hành là như thế nào. Tôi ngạc nhiên sửng sốt khi thấy rằng toàn bộ những việc làm của tôi trước đây không phải là tu tập. Tôi tự xét lại và thấy toàn bộ những gì học thuộc lòngcầu nguyện suốt bao năm tháng đã không phải là Pháp. Từ bao năm tháng, không có gì là Pháp cả

Tôi sinh năm 1946, gần Lawudo xứ Thami, Nepal. Khi tôi khoảng ba hay bốn tuổi, mẹ tôi gửi tôi vào một tu viện gần nhà để chú tôi dạy chữ. Ông ta là một tu sĩ theo truyền thống Nyingma.Nhưng việc học không kéo dài lâu vì tôi quá nghịch ngợm, tôi hay trốn khỏi tu viện để chạy về nhà mẹ nhiều lần. Nên mẹ tôi quyết định gửi tôi đến một nơi vắng và xa hơn, đó là vùng Rolwaling. Rolwaling là một địa danh huyền bí thiêng liêng của Ngài Liên Hoa Sanh (Padmasambhava), ở đó có nhiều hang động được ban ân phước.

Một người chú khác nữa tên là Ngawang Gendun đã đưa tôi đi Rolwaling. Chúng tôi phải đi vượt qua nhiều dãy núi đá rất nguy hiểm, đá rơi nằm trên lối đi có nước chảy băng qua, và rồi phải đi qua vùng núi tuyết trong một hay hai ngày. Khi băng qua vùng núi tuyết chúng tôi đã thấy nhiều khe nứt của băng tuyết sâu tới hơn ba mươi mét tựa hồ như có biển dưới đáy. Thật là một chuyến đi gian khổ. 

Tôi sống ở Rolwaling đựơc bảy năm, học đánh vần và học đọc. Thầy dạy học là chú Ngawang Gendun lúc đó đã là tu sĩ. Tôi học chữ cái và đọc tiếng Tây tạng , học thuộc lòng kinh cầu nguyện, đọc Kangyur (Kinh Phật) vàTengyur (luận giảng của các vị tôn giảẤn Độngoài ra còn đi dâng lễ Pujas tại nhà các dân làng.

Ở Solu Khumbu nhiều cư sĩ không biết chữ. Các Lama cho phép họ tham dự các lễ quán đảnh nhưng họ không thể nhập thất ẩn tu. Các tu sĩ có thể đọc hiểu Kinh điển nên được nhập thất, còn cư sĩ trì tụng nhiều triệu biến Chú Lục Tự om mani padme hung và các câu chú khác. Vì không biết chữ, các cư sĩ được các Lama cho phép hành trì theo khả năng của họ.

Lẽ ra các cư sĩ phải tự mình trì chú nhưng họ thường đến gặp các tu sĩ ở gần nhà và nhờ họ phụ đọc dùm cho đủ túc số đã phát nguyện. Họ mang khoai, nông sản khác đến và nói với tu sĩ: “Tôi đã phát nguyện đọc mấy triệu biến của câu chú. Bây giờ tôi nhờ sư đọc giúp cho tôi”. Họ đọc một số rồi yêu cầu vị sư đọc số lượng còn lại.

Tôi ở đó được bảy năm tụng đọc các Kinh Kangyur, Tengyur và Prajnaparamita(Bát Nhã Ba La Mật-ND) tại nhà các cư sĩ khi chú tôi được mời đến hành lễ Pujas. Có khi chúng tôi cử hành lễ Pujas cho người chết. Theo phong tục khi có người chết, thân nhân tổ chức lễ Pujas đặc biệtcúng dường một số tiền lớn cho các tu sĩ và các người khác.

Khi tôi lên mười tuổi, tôi đi Tây tạng, đến ở tu viện của Domo Geshe Rinpoche gần Pagri. Tôi ở đó được ba năm. Buổi sáng tôi tập học thuộc lòng Kinh điển, thời gian còn lại trong ngày tôi đến nhà dân làng hành lễ Pujas. Tôi trải qua cuộc thi đầu tiên ở đó với người quản lý dâng lễ cúng dường cho các tu sĩ . Pagri là một trung tâm mua bán sầm uất, có nhiều thương gia đến từ Lhasa, Tsang hay từ Ấn Độ – từ rất nhiều nơi.

 Vào tháng ba năm 1959, người Trung hoa đến Tây tạng nhưng vì Pagri gần biên giới Ấn nên chưa có gì nguy hiểm. Một năm sau tôi được chỉ dạy để thực hiện việc ẩn tu đầu tiên về phép tu ĐạoDu già “Lama Tsong Khapa Guru Yoga” ở một tu viện gần đó, có tên là Pema Choling, một chi nhánh trực thuộc tu viện của Domo Geshe. Tôi chưa hiểu biết gì về thiền định. Tôi chỉ tụng các lời cầu nguyện, đọc Migtsemas (lời cầu nguyện khi tu tập Lama Tsong Khapa Guru Yoga-ND). Tôi cho là đã hoàn tất đợt nhập thất, nhưng tôi không biết là đã tu như thế nào, cũng không biết đọc được bao nhiêu câu chú.

Vào cuối năm 1959, cảm thấy sắp bị nguy hiểm, chúng tôi quyết định đi Ấn độ. Một ngày nọ, khi nghe tin rằng vài ngày tới, người Trung hoa sẽ đến, chúng tôi bí mật bỏ đi vào ban đêm. Chúng tôi chỉ cần vượt qua một ngọn núi là tới được nước Bhutan. Chúng tôi vượt biên trong đêm tối, không thấy rõ đường, có lúc lội xuống bùn và trượt chân. Có những người du mục ở ngay biên giới. Nếu để họ thấy sẽ nguy hiểm vì nghe nói có công an ở cùng với họ, nhưng may thay, dù có chó sủa nhưng không người du mục nào ra khỏi lều cả.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến được Ấn Độ. Chúng tôi đến Buxa Duar, xứ Tây Bengal; tại đây chính phủ Ấn độ thu xếp cho các tu sĩ từ các tu viện Sera, Ganden và Drepung được định cư tiếp tục tu tập. Khi còn là thuộc địa Anh, thì Buxa là nơi giam giữ các tù nhân trong đó có Mahatma Gandhi, Nehru. Dãy nhà lúc trước Mahatma Gandhi bị giam nay trở thành nơi các ni sư ở, và chỗ Nehru bị giam nay trở thành phòng cầu nguyện của Tu viện Sera.

Tôi bắt đầu học triết lý Phật giáo với Geshe Rabten Rinpoche, học cuốn các “ Chủ đề Tập hợp” (Collected Topics -Dura), một môn học tranh luận đầu tiên. Nhưng Geshe Rabten có nhiều đệ tử và rất bận rộn nên một người học trò của Geshe là Gen Yeshe, người vừa mới qua đời, hồi đó đảm nhận dạy tôi. Sau đó, tôi theo học với Lama Yeshe.

Khi ở Buxa, tôi bị đau phổi vì điều kiện sống quá thiếu thốn. (Dĩ nhiên đó không phải là lý do duy nhất, mà còn do nghiệp của tôi nữa!). Sau đó Lama Yeshe và tôi đi Darjeeling, ở lại đó chín tháng để tôi có điều kiện chữa bệnh. Và chính trong thời gian đó, tức là năm 1965, khi chúng tôi đang ở trong tu viện của Domo Geshe ở Darjeeling, chúng tôi lần đầu tiên gặp Zina Rachevsky, một đệ tử từ phương Tây đến. Cha của Zina trước kia là một hoàng tử Nga, nhưng gia đình đã trốn sang Pháp trong thời kỳ cách mạng Nga. Zina sinh ra ở Pháp. Sau đó gia đình sang định cư ở Mỹ.

Zina muốn chúng tôi đi định cư ở Sri Lanka và mở một trung tâm Phật Pháp ở đó. Chúng tôi đã xin được phép của đức Dalai Lama và chính phủ Tây tạng, nhưng Zina gặp trở ngại nên việc đi Sri Lanka bất thành. Vì tôi là người Nepal nên cuối cùng chúng tôi quyết định đi Nepal.

Khi đến Nepal, chúng tôi ở trong một tu viện Gelug gần Baudhanath Stupa, ngay ngoài thành Kathmandu. Mỗi ngày qua cửa sổ, Lama chăm chú nhìn đến một ngọn đồi đặc biệt. Ngài dường như bị ngọn đồi thu hút và vào một ngày nọ, chúng tôi đi xem ngọn đồi đó. Đó là đồi Kopan.

Trong thời gian này, mẹ tôi cùng một số bà con từ Solu Khumbu đi đến Kathmandu để hành hương. Cứ mười hai năm một lần có một lễ hội đặc biệttoàn thể cư dân vùng núi Himalaya xuống núi đi hành hương đến thung lũng Kathmandu. Năm đó họ yêu cầu tôi về lại quê nhà. Nên tôi về Solu Khumbu.

Vào dịp này, hang động Lawudo được giao lại cho tôi, và tôi bắt đầu xây dựng tu viện Lawudo. Lama Yeshe cũng đang xây dựng tu viện Kopan. Hai tu viện được xây dựng cùng thời giancùng lúc đó tôi tìm thấy được quyển sách của Lodro Gyaltsen.

Chuyển Hóa Tâm

“Khai mở Cánh cửa Pháp” chủ yếu dạy về sự vô thường, cái chết và những nhược điểm của ham muốn tức là những chướng ngại tạo nên bởi tám pháp thế gian (từ đây sẽ dùng từ bát phong-ND). Bát phong, tức tám thứ lo phiền này, là:

1. Vui sướng khi được lợi (Lợi)
2. Buồn khổ khi bị thiệt hại (Thiệt hại)
3. Muốn vui sướng (Sướng)
4. Không muốn bất hạnh khổ sở (Khổ)
5. Muốn nghe những lời ưa thích (Khen)
6. Không muốn nghe những lời không ưa (Chê)
7. Muốn được ca ngợi (Vinh)
8. Không muốn bị phê bình lăng mạ (Nhục)

Tôi không biết đến bây giờ quyển sách này đã dịch ra tiếng Anh hay chưa. Về tư tưởng, quyển sách này không phải khó hiểu nhưng có nhiều thuật ngữ cổ cần được giải thích.

Vào lúc đó tôi đọc quyển sách thấy rất bổ ích. Nó dạy rằng, giống như nhào nắn bột bằng tay, chắc chắn bạn có thể chuyển hóa tâm theo cách bạn muốn. Tâm thức có thể được luyện để đi theo hướng này hay hướng khác. Giờ đây cách suy nghĩ của tôi không còn cứng ngắc, nhưng vào thời điểm đó, khi hiểu được một ít ý nghĩa của giáo lý, tôi sẽ thấy khó chịu nếu có ai đến cúng dường (ý nói Rinpoche muốn tự nghiêm khắc bản thân-ND).

Sau khi tìm thấy quyển Khai mở Cánh cửa Pháp, tôi đã thực hiện một đợt ẩn tu hộ pháp bổn tôn (deity). Tôi cho rằng nhờ quyển sách này tôi đã hiểu được cách thực hành Pháp nên ngay ngày nhập thất đầu tiên tôi có được sự bình an hỉ lạc không thể tin được. Lúc đó, ảnh hưởng của bát phong được giảm đôi chút nên tâm tôi được tĩnh lặng hơn và thanh tịnh hơn. Giống như dẹp bớt đất đáù ngăn cản đường đi, tâm tôi bớt đi chướng ngại của bát phong. Đây là điều đã làm cho đợt nhập thất ẩn tu đó thành công. Mặc dù trước khi nhập thất tôi đã không đọc kỹ các lời hướng dẫn cho việc tu tập tantra (Kim cang thừa-từ đây sẽ dùng từ tu tập tantra – ND) nhưng tôi đã nhận được ân phước của hộ pháp bổn tôn vì chướng ngại trong tâm bớt đi.

Cố gắng kiểm soát tâm bạn cho sạch hết chướng ngại rồi thì Pháp thanh tịnh trong tâm sẽ mang bạn đến gần hộ pháp bổn tôn hơn. Mặc dù bạn có thể không quen với việc thiền định nhưng ân phước của hộ pháp bổn tôn sẽ đến với bạn. Những dấu hiệu tốt ban ngày lúc đang thiền định cũng như ở ban đêm trong giấc mơ biểu lộ cho thấy hộ pháp bổn tôn hài lòng với bạn và đang ban ân phước cho bạn. Dường như việc nhận được ân phước từ hộ pháp bổn tôn không tùy thuộc duy nhất vào sự hiểu biết thiền định trong giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu của đạo lộ tantra. 

(Dĩ nhiên bạn không thể tiếp tục nhập thất nếu khi càng ẩn tu thì lung tức là gió, là bệnh bạn có, càng phát triển nhiều hơn. Sau khi tiếp xúc với Phật giáo Tây tạng bạn sẽ biết tất cả về lung. Trước đó bạn không biết nhiều về nó. Ở đây, nguyên nhân chính của lung là không khả năng thực hành ý nghĩa chân thật của Pháp, tinh túy của giáo lý này) 

Kirti Tsenshab Rinpoche, người nắm giữ Phật Pháp thiêng liêng đã nói: “Toàn bộ Kinh điển của Phật (tiếng Tạng là Kangyur) và các luận giảng của các vị Tôn giả (tiếng Tạng là Tengyur) đều nói tới sự điều phục tâm”. Toàn bộ các lời dạy này đều nhắm vào việc luyện tâm, chuyển hóa suy nghĩ. Toàn bộ Kinh điển của Phật nói tới sự chuyển hóa tâm, điều phục tâm.

“Khai mở Cánh cửa Pháp” dạy về chuyển hóa suy nghĩ như tôi đã lưu ý. Vì sao được gọi là chuyển hóa suy nghĩ? Cái gì ngăn cản và làm mất hiệu quả việc chúng ta lắng nghe, suy ngẫm ý nghĩa của giáo lý, thiền định về đường đạo mà giáo lý nêu ra? Đó là bát phong, sự ham muốn bám chặt cuộc sống này. Mục đích đặc biệt của cuốn luận giảng này là kiểm soát bát phong– đây là sự chuyển hóa suy nghĩ.

Toàn bộ lời dạy của Lamrim- con đường đạo từng bước đưa tới giác ngộ- là chuyển hóa suy nghĩ. Mục đích chính của Lamrim là điều phục tâm. Đây là lý do tại sao việc lắng nghe, suy ngẫm và thiền định về các lời dạy Lamrim rất lợi ích. Khi các lời dạy khác không có hiệu quả thì việc nghe giảng và đọc Lamrim có thể điều phục tâm bạn. Lamrim chứa đựng một sự sắp xếp đặc biệt có thể điều phục được tâm thức.

 Cuốn Lamrim đầu tiên được biên soạn bởi Lama Atisha với tiêu đề “Ngọn đèn Soi đường tới Giác ngộ”. Tác phẩm đó bắt đầu bằng việc dạy quán về sự tái sinh được thân người hoàn chỉnh – tám tự do và mười thuận lợi. Tuy nhiên đến lượt Lama Tsong Khapa, ngài mở đầu cuốn sách bằng việc quán về sự sùng mộ thầy, coi đó là gốc của đường đạo .

Giờ đây, chúng ta suy xét xem cái gì ngăn cản sự phát triển đạo lộ từng bước đưa tới giác Ngộ trong tâm ta, cái gì không cho phép chúng ta có được những thực chứng đầu tiên về lòng sùng mộ thầy hay sự tái sanh thân người hoàn chỉnh. Lại một lần nữa, đó là bát phong. Bát phong không cho phép việc thực hành Lamrim trở thành Pháp. Cái gì không cho phép các hoạt động thường nhật trở thành Pháp? Từ sáng sớm cho tới đêm khuya cái gì không cho phép những hành động của chúng ta trở thành Pháp? Chính là bát phong, sự ham muốn bám chặt cuộc sống này. Đây là trở ngại ngăn cản sự phát triển Lamrim ở trong tâm ta từ lúc bắt đầu tu tập cho đến khi Giác Ngộ, nó không cho phép chúng ta có được những thực chứng như sự sùng mộ thầy hay sự tái sinh thân người hoàn chỉnh.

 Chúng ta cần luyện tâm bằng việc soi rọi lại những nhược điểm của bát phongđối chiếu với những lợi ích vô tận khi buông bỏ được bát phong. Đặc biệt, chúng ta luyện tâm bằng sự Thiền định về vô thường và chết. Một khi sự luyện tâm sơ khởi này được làm, bạn sẽ mở được cánh cửa Pháp. Rồi thì không chút khó khăn bạn sẽ có khả năng thực hành Pháp. Và bạn sẽ có khả năng làm được mọi hành động bạn muốn như nhập thất hay các Pháp hành khác. Nói chung, mọi hành động bạn làm đều là Pháp. Ngoài ra, bạn còn có khả năng bắt đầu phát triển trong tâm những thực chứng trên đường đạo từ lòng sùng mộ thầy hay sự tái sinh thân người hoàn chỉnh cho tới sự giác ngộ. Bạn có khả năng phát khởi, tiếp tụchoàn tất con đường đạo đưa tới sự giác ngộ trong tâm bạn.

 Tất cả những kết quả này đều đến từ sự luyện tâm ngay bước đầu tiên, đó là Khai mở Cánh cửa Pháp. Nếu bạn thực hành được ý nghĩa của giáo lý này, bạn sẽ kiểm soát được bát phong thay vì để chúng điều khiển bạn. Thay vì bị tước đoạt sự tự do, bạn giành lấy sự tự do cho mình. Nếu không, bạn sẽ không có tự do, không tự chủ độc lập.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10143)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10418)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23619)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11856)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10082)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21632)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29426)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11400)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12378)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26342)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31047)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25353)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22821)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13057)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21955)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12234)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14155)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12464)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11259)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10698)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38082)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13678)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13475)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12357)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12592)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12062)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11219)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23370)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33212)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12808)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7397)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12193)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12625)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12056)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12874)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11951)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10708)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11380)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11676)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10884)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10811)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10378)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10716)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11919)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10702)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12743)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10811)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11394)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11098)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11642)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10518)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11267)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12311)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11177)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12492)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11431)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11516)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11307)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11594)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13004)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14182)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11876)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13178)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11586)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11440)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10938)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11293)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10822)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11064)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10898)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10269)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17123)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11016)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10872)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10419)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10768)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11389)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11089)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10583)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11383)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10360)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10657)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12777)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19282)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19715)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21306)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20346)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19773)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19056)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20498)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21100)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17940)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21857)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant