Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời cảm tạ

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11820)
Lời cảm tạ

LỜI CẢM TẠ

i dâng hiến lòng biết ơn của tôi đến Ngài Kyabje Dodrupchen Rinpoche và Kyala Khenpo Rinpoche về các giáo lý thâm sâu Phật giáo của các Ngài đã làm cuộc đời tôi đầy ý nghĩa, và những chỉ dẫn, thực hành kỹ lưỡng của các Ngài về nghi lễ chết để xuất bản quyển sách này, và đến cha mẹ, cha mẹ đời trước, và bạn bè thân mến, đến ai mà tôi còn thiếu nợ trong cuộc sống và tinh thần.

Tôi rất cám ơn Harold Talbott đã biên soạn quyển chết an bình, tái sanh hạnh phúc với sự kiên nhẫn, tận tụy, và trí tuệ. Tôi đặc biệt cám ơn Kendra Crossen Burrough đã thành thạo trong nghệ thuật biên soạnkiến thức về chủ đề xuất bản quyển sách này trong dạng hoàn chỉnh. Tôi biết ơn Ian Baldwin đã chỉ đường thông qua thế giới xuất bản và những chỉ dẫn của một biên tập viên vĩ đại của ông, đến Ngài Zenkar Rinpoche đã cung cấp nhiều bản văn delog quý hiếm; đến Gene Smith và Trung Tâm Tài Nguyên của Phật giáo Tây Tạng về nguồn nghiên cứu vô giá; đến Larry Mermelstein về phiên dịch mantra tiếng Phạn (không may, chúng tôi không thể sử dụng những dấu phụ mà ông cung cấp); đến Trung Tâm Mahasiddha Nyingmapa, Ngài Chagdud Rinpoche đã viên tịch, Gyalse Putrug Rinpoche, Gyatul Rinpoche, Sherab Raldhi Lama, Lama Migmar Tseten, Ani Lodro Palmo, và Madeline Nold về việc chia sẻ các tủ sách giá trị của họ; đến Jonathan Miller, Byron Brumbaugh, và Philip Richman về việc đọc bản thảo và cho các đề nghị giá trị; đến David Drove về sự khéo léo vi tính của ông, đến Michael Krigman về việc xúc tiến tác phẩm của chúng ta tại www.tulkuthondup.com; và đến Victor và Ruby đã cho một nơi thanh bình để làm việc.

Tôi mang ơn sâu sắc đến Michael Baldwin về việc một tay ông cung cấp mọi nhu cầu con người đã giữ việc nghiên cứu và viết dự án sản xuất và đến tất cả các vị bảo trợ của Quỹ Tài Trợ Buddhayana (3 Đường Barnabas, Marion, MA 02738) về sự hỗ trợ hào phóng nhất trên 25 năm qua.

Tôi rất biết ơn Acharya Samuel Bercholz đã tin tưởng vào công việc của tôi và đến Peter Turner, Jonathan Green, Lenny Jacobs, Hazel Bercholz, và văn phòng của Nhà Xuất Bản Shambhala đã quan tâm to lớn đến quyển sách này. Ngoài ra cũng cám ơn đến L.S. Summer về việc chuẩn bị bảng chú dẫn.

Cuối cùng, tôi cám ơn đến Lydia Segal đã liên tục gợi cảm hứng trong khi biên soạn quyển sách này và văn chương khéo léo của cô đến chương trình với tình thươngkiến thức.

Tôi hồi hướng mọi công đức kết hợp với sách này với cầu nguyện chân thành đến tất cả bạn bè đã chia sẻ các khoảnh khắc chuyển tiếp quý báu nhất với tôi trong nhiều cách khác nhau và đến tất cả những ai sẽ hưởng thụ các giáo lý chia sẻ trong sách này. Cầu mong họ hoàn toàn nhận biết và luôn luôn là một với sự ban phước của Đức Phật Vô Lượng Quang và tất cả các đấng ban phước.

Về Quyển Sách Này

Quyển sách này được rút ra từ trí tuệ uyên thâm hàng ngàn năm của truyền thống đạo Phật Tây Tạng, được truyền đạt trong những lời lẽ đơn giản nhưng mọi người dễ dàng hiểu được. Mục tiêu chính của tôi là giới thiệu giáo lý không chỉ chữa lành đau khổtán loạn của chúng ta về cái chết và cận tử, mà còn giúp chúng ta nhận ra mục đích giác ngộ của an bìnhhoan hỷ tối thượng, không những cho cuộc sống này mà còn cho sau khi chết và sau nữa.

Đức Phật đã dạy nhiều cách khác nhau để chúng ta tự chuẩn bị cho những hoàn cảnh không biết của cái chết và làm được điều tốt nhất. Rất nhiều bậc thầy giác ngộ của chân lý đã viết các luận thư về chính chủ đề này. Phật giáo Tây Tạng đã sản sinh một số giáo lý mô tả chi tiết cặn kẽ nhất trong lãnh vực chết và sau khi chết – quyển Bardo Thodol nổi tiếng (được biết trong tiếng Anh là Tạng Thư Sống Chết) là một trong số giáo lý. Trong thực tế, mọi giáo lý đạo Phật đều nhận racải thiện hoàn cảnh sống, chết, và cuộc sống kế tiếp. Các nguồn của tôi cho quyển sách này bao gồm rất nhiều bản văn khác nhau,[1] cũng như các giáo lý mà tôi đã nhận được trực tiếp từ vị thầy tâm linh của tôi và các kinh nghiệm trực tiếp về cái chết của các vị thầy tâm linh vĩ đại, bạn bè thân thuộc, và những người không quen.

CÁC GIÁO LÝ TRÍ TUỆ CỦA TÂY TẠNG

Giáo lý của đạo Phật Tây Tạng phân chia cuộc hành trình luân hồi của chúng ta thành bốn giai đoạn:

1. Giai đoạn sống;
2. Giai đoạn cận tử;
3. Giai đoạn của cái nhìn thoáng qua bản tánh tối thượng của tâm và cái thấy quang minh của nó, và
4. Bardo, hay lộ trình chuyển tiếp, giữa trạng thái sau khi chết và sự tái sanh của kiếp sau.

Chương 1 đến chương 4 tổng kết bốn giai đoạn này. Để minh họa về cái chết và bardo, tôi rút ra từ những bản ghi chép ở nhiều nơi của các delog, “trở về từ cái chết” của người Tây Tạng, mà các mô tả thường rõ rệt tương tự văn chương phương Tây hiện nay về những kinh nghiệm-cận tử. Vì bản mô tả dài nhất mà tôi trích dẫn liên quan đến bardo, tôi đã cống hiến toàn bộ trong chương 5, “Những Câu Chuyện về Bardo” – đến các câu chuyện về các hành trình không thông dụng trong cõi địa ngục hoặc tịnh độ sau khi chết.

Tại sao, ở đâu và chúng ta tái sanh trong nhiều cõi khác nhau vào lúc kết thúc của bardo ra sao? Chương 6 “Sự Tái Sanh”, tập trung về các câu hỏi này và cung cấp bản đồ chỉ đường giúp chúng ta tránh tái sanh vào nơi xấu và biết biết cách chọn nơi tốt, như những thiên đường hạnh phúc, được biết như các cõi tịnh độ.

Các tịnh độ là nơi an trụ của thiên đường chư Phật, các bậc hiện thân của trí tuệ và lòng bi. Những nghi lễ Tây Tạng cho người chết và sắp chết bao hàm sự thiền định sùng kính tiêu biểu về các vị Phật này và cõi tịnh độ của các Ngài, đó là một nguồn ban phướcnăng lực. Trong sách này, chúng tôi tập trung vào một trong những tiêu biểu tâm linh phổ biến nhất, Đức Phật Vô Lượng Quang. Tưởng nhớ và cầu nguyện đến Đức Phật Vô Lượng Quang sẽ có thể giúp người chết tái sanh trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài, một cõi của đại an bình và hạnh phúc. Chương 7, “Đức Phật Vô Lượng QuangCõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài,” giới thiệu một bức tranh sống động về nguồn ban phước này, đặt nền tảng trên những diễn giải đã cho trong kinh điển.

Những người còn sống giữ một vai trò rất quan trọng để hoạt động giúp đỡ người chết và sắp chết trong chuyến hành trình của cái chết và vượt lên cái chết của họ. Chương 8, “Làm Thế Nào Để Giúp Đỡ Người Chết Và Sắp Chết,” đưa ra một số hướng dẫn thực tế cho các thành viên và người còn sống trong gia đình người chết, những người giúp đỡ, người chăm sóc, dù họ là Phật tử hay không phải đạo Phật.

Đi sâu hơn vào truyền thống Tây Tạng với những quan tâm này, chương 9, “Các Nghi Lễ Phục Vụ Cho Người Chết Và Sắp Chết,” mô tả các thực hành nghi lễ truyền thống bởi những lama cho người chết và sắp chết trong cộng đồng ở phía Đông Tây Tạng, nơi đó tôi đã lớn lên và được rèn luyện trong truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng. Tôi kết thúc với chương 10 với một số suy nghĩ tổng kết.

Tôi đã đăït các tài liệu của đạo Phật thêm hơn nữa vào hai phụ lục, vì nó có tính kỹ thuật một chút. Bạn có thể thấy ở đây một số nghi lễ chết rất đơn giản nhưng quan trọng, có thể được một lama thực hiện hoặc người giúp đỡ cho người chết và sắp chết. Phụ lục A, “Thiền Định Trên Bốn Nguyên Nhân Để Tái Sanh Vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc,” giới thiệu các thiền định chung của đạo Phật, với bản văn Tây Tạnggiải nghĩa. Phụ lục B, “Tám Nghi Lễ Mật Truyền Của Đạo Phật Cho Người Chết Và Sắp Chết,” giới thiệu tám nghi lễ phục vụ quan trọng, với bản văn Tây Tạnggiải nghĩa. Ngoài ra, trong phần phụ lục B, và cho nhiều độc giả quan tâm, là sự giảng giải về phowa, một thiền định duy nhất để chuyển di tâm thức người sắp chết (cho chính bạn hoặc cho người nào mà bạn trợ giúp) đến cõi tịnh độ giác ngộ.

MỘT SỐ SUY NGHĨ CÁ NHÂN

Quyển sách này theo một nghĩa nào đó được xem như đứa con yêu mến của tôi, vì các giáo lý mà tôi thu thập ở đây là rất quý báu. Với một số người, dường như nó không giống một tác phẩm Tây Tạng truyền thống uyên thâm, thường đầy những thuật ngữ kỹ thuật và những giả định triết học sâu sắc. Với người khác, có thể sự xuất hiện của nó thiếu tính khoa học mà các học giả phương Tây xem là không thể thiếu được. Nhưng mối quan tâm của tôi là không cố trả lời các phản kháng như vậy. Mục đíchhy vọng của tôi là kiến thức này có thể sử dụng cho tất cả người đọc, cả hai đạo Phật và không phải đạo Phật, trong lúc gìn giữ tính cốt tủy chân chính của giáo lý nguyên thủy.

Tôi trở nên quan tâm viết quyển sách này vì một số lý do. Một phần tư thế kỷ trước, khi tôi đến Hoa Kỳ, nhiều bạn bè phương Tây của tôi đã cố gắng nỗ lực để hoàn tất trình độ của họ, bảo đảm một việc làm, và tìm một cuộc sống gia đình; nhưng giờ đây, họ đang đối phó với bệnh tật và viễn cảnh chết – và tôi cũng vậy. Những lý do cá nhân để viết quyển sách này cũng là một phần động lực của tôi.

Như một Phật tử, tôi đã được dạy, học tập và làm việc để cải thiện tính chất của cả hai cuộc sống và cái chết, cho chính mình và người khác. Hai quyển sách trước đây của tôi, Năng Lực Chữa Lành Của Tâm và Sự Chữa Lành Vô Biên, đều liên quan chủ yếu đến việc chữa lành những bệnh tật trong cuộc sống này. Cuộc sống thì quan trọng và quý báu, và chúng ta phải giữ gìn nó; nhưng vì cái chết là lối vào cánh cổng dẫn đến vô số kiếp sống tương lai của chúng ta, vậy nó không cần thiết để được chú ý đặc biệt hay sao? Và do vậy, quyển Chết An Bình, Tái Sinh Hạnh Phúc được thiết kế để dẫn dắt chúng ta trong việc đối diện với cái chết với tự tin và bảo đảm một tái sanh hạnh phúc – và trong việc giúp đỡ người khác cũng tương tự như vậy. Do vậy, điều này cũng là một hoạt động chữa lành.

Từ thuở thơ ấu, tôi lớn lên ở Tu Viện Dodrupchen nổi tiếng tại phía Đông Tây Tạng, học tập Phật giáo dưới sự giám hộ thương yêu của vị thầy vĩ đại Kyala Khenpo, và các vị thầy trí tuệ khác. Các Ngài rèn luyện và dạy dỗ tôi trong truyền thống-những thế kỷ cũ của sự uyên thâmthành tựu thiền định của các Ngài, trong đó chính các Ngài đã tham gia từ ngày này sang ngày khác. Trong khi dẫn dắt cuộc sống đến sự trọn vẹn nhất, các Ngài luôn chuẩn bị cho cái chết của chính các Ngài, vì biết rằng cuộc đời thì ngắn ngủi, cái chết thì chắc chắn xảy ra, và những gì xảy ra sau khi chếtquyết định quan trọng cho tương lai. Các Ngài luôn nhiệt tình tham gia vào việc giúp đỡ người khác để cải thiện cuộc sống họ và chuẩn bị cho cái chết.

Tu viện của tôi nằm trong một thung lũng sâu được bao quanh bởi các rặng núi cao, hùng vĩ, là một trong các cụm định cư biệt lập nhất của thế gian. Với tâm của một đứa trẻ, tôi hoàn toàn tin rằng tu viện của tôi là một nơi tôn nghiêm của an bìnhhạnh phúc vĩnh cửu. Tôi tin rằng không một thế lực nào có thể xúc chạm sự hiện hữu thiêng liêng của nó. Nhưng tôi đã lầm, vì các thế lực chính trị rối loạn thay đổi cuộc sống chúng tôi mãi mãi. Truyền thống mạnh mẽ của những thế kỷ-cũ của cuộc sống tôn giáo tại tu viện đột nhiên chấm dứt, và chúng tôi buộc phải đào thoát. Dưới sự hướng dẫn của một trong các vị thầy siêu phàm của tu viện, Ngài Kyabje Dodrupchen Rinpoche, người được phú cho khả năng đặc biệt của trí tuệ tự nhiên, một số trong chúng tôi chạy trốn đến Ấn Độ như những người tị nạn, sau khi băng ngang qua Xứ Tuyết (Tên thời xưa của Tây Tạng) một khoảng xa hơn một ngàn dặm.

Sẽ rất dễ dàng để trách cứ người khác về những đau khổ, cả tinh thần lẫn thể xác mà ta phải gánh chịu là do kết quả của chính trị, quân sự, xung đột xã hội, và bạo lực khắp nơi trên thế giới. Mặc dù việc trách cứ đổ lỗi có thể đem lại một cảm giác thỏa mãn hay chứng minh, Phật giáo nhấn mạnh rằng mọi đau khổ của cuộc sống chúng tahậu quả của chính hành động ở quá khứ chúng ta, vậy chỉ trách cứ người khác sẽ không giúp tạo ra một điều đúng. Đây không phải là một trò chơi tự-trách cứ, một dạng bệnh thần kinh của sân hận chống lại chính mình thay vì hướng trực tiếp tới nguyên nhân thực sự. Thay vào đó, chúng ta phải nhận trách nhiệm về cuộc sống chính mình ra sao. Chỉ khi chấp nhận trách nhiệm này, chúng ta mới có thể ngồi vào vị trí lái xe và bắt đầu cho một hướng đi thực sự của chuyến hành trình nghiệp của chính mình.

Ấn Độ, giống như nhiều người tị nạn khác, tôi có kinh nghiệm trực tiếp được đối xử tử tế bởi những người sẵn sàng chia sẻ bất cứ những gì họ có. Sự chào đón như vậy là một điều kỳ diệu to lớn để nhớ lại thậm chí cho đến hôm nay, sau bốn thập niên. Sự tự do được cầu nguyện có một ý nghĩa đặc biệtan ủi những người bị thương tổn.

Sau nhiều năm nỗ lực, tôi cố gắng điều chỉnh hợp với văn hóa thời lưu và những giá trị của thế giới mới. Điều này dễ dàng hơn cho tâm người trẻ– giống như các chấn thương thân thể của họ được chữa lành – nếu họ chấp nhận. Thế nên, tôi đã sống sót mà không có bất cứ tổn hại kéo dài nào.

Tôi cũng cám ơn vì vận maygiá trị to lớn của hai mươi hai năm sống tị nạn ở Ấn Độ và sau đó như một giáo sư đại học. Và hai mươi bốn năm ở Hoa Kỳ giúp tôi làm việc trên giáo lý như cam lồ trong nguồn an ủi to lớn. Mọi cơ họâi, lớn và nhỏ trong thế giới tự do không chỉ làm phong phú cuộc sống tinh thần hàng ngày, mà còn mở rộng chiều sâu và phạm vi chuyến hành trình tâm linh của tôi.

Tuy nhiên, quá nhiều cám dỗ thật hùng mạnh và hiện đại để kháng cự. Ngày tháng trôi qua thật nhanh, giống như tốc độ của ánh sáng. Chúng đã trôi qua trước khi tôi thậm chí có thể nhận ra những gì xảy ra hoặc có cơ hội hưởng thụ nó. Nhiều cơ hội to lớn quý như vàng của cuộc sống quý báu này đã trôi qua mãi mãi, không còn gặp lại. Mà mỗi bước đi của đời sống là một thách thức quan trọng, và mọi khoảnh khắc quý báu đều là một nguồn ban phước thật sự. Tôi cũng có thể chắc chắn sự tích tụ nhiều kết quả quý báu của sự làm việc chuyên cần của tôi và hồi hướng nó cho những ngày sắp đến, chỉ vì sự giúp đỡ tử tế của nhiều vị thầy và bạn hữu.

Trong những trang này, tôi viện dẫn những giáo lý của trí tuệ uyên thâm đã tiếp nhậnTây Tạng và những gì tôi học được qua các sự kiện đau khổ mà tôi đã kinh nghiệm ở đó. Nhưng nếu không có cuộc sống tôi đã kinh nghiệm trong thế giới ngoài Tây Tạng – với những phong phú vật chấtkiến thức đa dạng cũng như sự đấu tranh với cám dỗ của nó – thì quyển sách này sẽ chẳng bao giờ được hình thành. Tôi hy vọng nó sẽ trở thành một ánh sáng dẫn dắt cho chuyến hành trình của tôi đến nơi chưa biết cũng như cho nhiều người khác sẽ sử dụng nó.

[1] Các bản văn mà tôi vẽ và trích dẫn ở dạng viết tắt trong những ghi chú sau quyển sách, mục “Tham khảo” cung cấp chìa khóa cho các viết tắt này và toàn bộ dữ kiện của xuất bản về những nguồn này.
 
 

DẪN NHẬP
CHẾT CHƯA PHẢI LÀ HẾT

Một cách phổ quát, ngày chết là thời điểm quyết định cho mọi người. Dù bạn ở phương Đông hay Tây, là một Phật tử hay người đi theo một số giáo lý khác, người có lòng tin hay không có lòng tin – cũng chẳng khác biệt. Khoảnh khắc ý thức rời bỏ khỏi thân thể yêu mến nhất của bạn sẽ là một điểm chuyển trọng yếu của cuộc đời bạn, vì cái chết sẽ bắt đầu lôi bạn vào một cuộc hành trình đến một thế giới chưa biết.

Khi giờ chót sắp đến, bạn sẽ đứng ở một ngã tư đường. Nếu đã chuẩn bị trước bạn sẽ sẵn sàng đi với sự thoải mái và tự tin to lớn, như một chim đại bàng bay vút lên bầu trời. Nếu không, hành trình của bạn sẽ lập lại nhiều lần qua lối vào sinh, tử và tái sanh.

Phần lớn mọi người không thích nhắc đến cái chết không thể tránh khỏi của họ. Thậm chí họ sợ cả việc phải nghĩ đến nó, chúng ta hãy bàn luận riêng về nó. Với một số người, khái niệm nghiền ngẫm về cái chết thậm chí như chưa từng khởi lên, chưa thể nhập được chúng trong cuộc sống hàng ngày. Dù người có niềm tin rõ ràng tin tưởng vào kiếp sau, nhưng nhiều người khác lại khăng khăng hoàn toàn không có gì sau khi chết.

Ngày nay, chúng ta đang trong thời đại hoàng kim của khoa học và kỹ thuật. Nhưng phạm vi kiến thức đáng kinh ngạc của chúng ta về cuộc sống lại kết thúc lúc hơi thở chúng ta ngưng lại. Khoa học và kỹ thuật không thể đưa ra một đầu mối nhỏ nhất là có hay không có bất cứ sự liên tục nào của ý thức sau hơi thở cuối của chúng ta. Những nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vấn đề một cách đứng đắn bị bác bỏ bởi xu thế chủ đạo của y khoa và khoa học. Trong thời buổi hoài nghi này, người ta thường miễn cưỡng tin vào một kiếp sau, vì sợ bị cho là ngây thơ, hay đơn giản.

Những hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về cái chết bày ra trước mắt chúng ta bất cứ khi nào mở truyền hình – hoặc là cái chết hư cấu trong phim ảnh hay tin tức tóm tắt về cái chết của con người khắp thế giới vì bệnh tật hay bạo lực. Tuy nhiên, hình ảnh tự nhiên của những cá nhân bình thường đang hấp hối hay đã chết lại ít thấy. Chúng ta thích chứng kiến những lời tán tụng lạc quanthân thể được chôn trong quan tài đầy hoa hơn. Nếu dám nhìn thẳng vào thực tại đời sống và cái chết với đôi mắt mở rộng, chúng ta sẽ tiếp nhận một chứng minh hùng hồn chu trình bấp bênh của hiện hữu rằng mọi người phải chịu đựng, từ sinh đến tử và tái sanh trở lại.

ĐIỀU GÌ XẢY RA VÀO LÚC CHẾT?

Những tôn giáo lớn trên thế gian đều đồng ý rằng cái chết chưa phải là hết, rằng “một cái gì đó” vẫn tiếp tục sống, mặc dù chúng khác biệt trong chi tiết và sự diễn dịch. Tâm, ý thức, linh hồn, tâm linh – bất cứ những gì chúng ta gọi nó – sẽ tiếp tục hiện hữu trong dạng này hay dạng khác. Phật giáo nhận biết “tâm” (Tạng, sem, Sems; Phạn, chitta)[1] là tánh nền tảng tiếp tục tồn tại sau cái chết của thân vật lý. Dù thân chúng ta sẽ tan hòa trở lại vào những nguyên tố mà chúng đã được hình thành, tâm và ý thức chúng ta sẽ tiếp tục đầu thai vào cõi hiện hữu khác.

Chừng nào chúng ta còn sống, tâm sẽ cùng ở với thân, cung cấp một cấu trúc phàm tục cho chúng ta một cảm giác nhận biết. Do đó, chúng ta cảm thấy nhiều hay ít tương tự như mọi người trong suốt cuộc đời mình. Những ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài và những thói quen văn hóa cũng truyền đạt tính liên tục của kinh nghiệm. Chúng ta có một cảm giác vững chắc về thân thểhiện tượng xuất hiện của thế giới vật chất quanh ta, tất cả sự việc và những gì xảy ra xuất hiện trong nhận thức, được tiếp nhận bởi những giác quan, dường như hoàn toàn có thật, ở bên ngoài, và tách biệt khỏi tâm chúng ta.

Nhưng vào lúc chết, tất cả những hình tướng này sẽ biến mất. Tâm sẽ lìa khỏi thân vật chất, thân này sẽ bắt đầu mục rữa. Ngay khi ý thức rời khỏi thân, sự vật mà chúng ta thấy, và cảm nhận chúng ta có được trong cuộc đời sẽ thay đổi hoàn toàn. Những gì chúng ta kinh nghiệm sau khi chết sẽ chỉ tùy thuộc vào tâm ta, vào những khuynh hướng thói quen của tâm thứctư duychúng ta đã tạo và nuôi dưỡng trong lúc sống.

Nếu tâm chúng ta an bìnhhoan hỷ thì theo luật tự nhiên bất cứ chúng ta làm gì sẽ là một biểu lộ của an bìnhhoan hỷ. Do vậy, mọi hoạt động của chúng ta sẽ trở thành đức hạnh, và sẽ là nguồn an bình, vui vẻ cho mọi người đến tiếp xúc với chúng ta. Vào lúc chết – khi thoát khỏi sự giam cầm của thân vật chất, những hạn chế văn hóa, và ảnh hưởng của hoàn cảnh chúng ta sẽ giải thoát để hưởng thụ an bìnhhạnh phúc, đó là bản tính thật sự của tâm mình. Tương tự, nếu rèn luyện tâm theo cách đúng trong cuộc sống, thì, vào lúc chết, mọi hiện tượng trước mắt chúng ta sẽ xuất hiện như một thế giới an bình, hạnh phúc, và giác ngộ.

Nhưng nếu tâm chúng ta đắm chìm trong những cảm xúc tiêu cực như thù hận, thì bất cứ những gì ta suy nghĩ sẽ bị phiền não bởi những tư duy và cảm nhận sân hận thiêu đốt. Bất kỳ những gì chúng ta nói hay làm sẽ là một biểu lộ bùng nổ của sân hận và thù ghét. Do vậy, ngày được an bình sẽ chẳng có cơ hội hé lộ trong tâm ta. Sự đau khổ của chúng ta sẽ trở thành nguồn của hận thùđau khổ với những người thân cận. Vào lúc chết, chúng ta có thể gặp một thế giới cháy bỏng trong ngọn lửa của địa ngục – là biểu hiện của sân hận và thù ghét của chúng ta.

NGHIỆP, LUẬT TỰ NHIÊN CỦA NHÂN QUẢ

Những tôn giáo lớn trên thế giới đều đồng ý rằng lòng tốt và cuộc sống hữu ích sẽ dẫn đến một cõi an bìnhhạnh phúc sau khi chết, ngược lại người giận dữ và gây hại sẽ bị đem lại những hậu quả khắc nghiệt tương ứng. Chẳng hạn, người Công Giáo ca tụng việc làm tốt và những hoạt động từ thiện, và Do Thái Giáo thúc giục thực hiện hành động tốt bởi mệnh lệnh của Torah. Đạo Phật nói đến công đứcchúng ta tích lũy nhờ trau dồi những tư tưởnghành vi tích cực. Những truyền thống này và truyền thống khác chấp nhận rằng một luật tự nhiên của nhân quả điều hành trong vũ trụ chúng ta. Karma là chữ của Đạo Phật dùng cho luật này, chi phối mọi sự kiện. Mọi hành động tinh thầnvật chất bắt đầu bởi mong muốn tinh thần đều trở thành một nguyên nhân tạo thành kết quả; đặc biệt trong Phật giáo giảng dạy rất chi tiết chính xác những kết quả gì sẽ theo sau hành động đặc biệt nào. Nói chung, khuôn mẫu của tư duy, cảm xúc, ngôn từ, và hành động tích cực tạo ra hạnh phúc, trong khi tâm thức và hành động vật chất gây ra đau khổ – là những sự kiện của luân hồi.

Mọi cảm xúc hủy hoại, cũng như những khái niệm tâm thức quen thuộc và khuôn mẫu tư duy của chúng ta đều mọc rễ trong điều mà Đạo Phật gọi là bám chấp vào “bản ngã” và quan niệm nhị nguyên về chủ thể và đối tượng. Như đã được trình bày bởi Tổ Long Thọ, một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo: “Tất cả chúng sanh đều xuất phát từ việc bám chấp vào “cái tôi”. Đó là khuynh hướng bám chấp và trở nên bám luyến vào đối tượng tư duy và khái niệm của tâm, là nguyên nhân thực sự của việc chúng ta đi vào cuộc sống trong thế giới nhị nguyên.

Chấp ngã là cách tâm thức nhận biết đối tượng do biết chúng như những thực thể thực sự hiện hữu. Những đối tượng tinh thần bao gồm mọi hiện tượng khởi lên trong nhận thức của chúng ta, như “của tôi”, “bạn”, “ông ấy”, “bà ấy”, “tiền bạc”, hay “cái bàn”, cũng như những ý niệm, cảm nhận, và cảm giác như “đau đớn”. Ngay khi bám chấp một đối tượng tinh thần và tin vào nó là có thực và bền vững, chúng ta đã hình thành một tính nhị nguyên chủ thể và đối tượng. Sau đó phát sinh khái niệm thương hay ghét đối tượng tinh thần này, và điều đó làm tâm thức bị bám chấp thu hút trói buộc. Cuối cùng, đó là cảm nhận của kích động hay đau khổ, đầy căng thẳngáp lực.

Trong quan điểm của Đạo Phật, “bản ngã” bao gồm “tôi” và “của tôi” nhưng nó cũng bao gồm mọi hiện tượng khởi lên trong tâm thức chúng ta. Tuy nhiên theo hiểu biết cao nhất của Phật giáo, thì “bản ngã” không thật sự hiện hữu như một thực thể bền vững, bất biến, cố định. Thái độ bám chấp của chúng ta do dựa trên ảo tưởng. Tuy nhiên, vì bị trói buộc trong nghiệp, sự suy nghĩ ảo tưởngcư xử cho rằng mọi sự hoàn toàn quá thật với chúng ta nên kết quả là đau khổchịu đựng.

Chu trình bám chấp đó tự nó tiếp tục lập lại như luật nhân quả, luật nghiệp báo của cuộc sống. Nó sản sinh và làm bừng lên ngọn lửa phiền não của sự lầm lẫn, thù hận, keo kiệt, tham lam, ganh tị, kiêu ngạosợ hãi. Những cảm xúc phiền não này ăn sâu vào sự chấp ngãnguyên nhân của tái sanh, trong lúc đó, những trạng thái tích cực của tâm là phương tiện của giải thoát.

Kịch bản thay đổi của sinh, tử và sau khi chết xảy ra không do lựa chọn mà cũng không do cơ hội. Không ai có thể tạo ra chúng cho chúng ta. Chúng là sự phản chiếuphản ứng của tư duy, lời nói, và hành động của chúng ta. Do vậy, phải rèn luyện tâm mình và thực hành kiên định để bảo đảm một cái chết an bìnhtái sinh hạnh phúc.

CHU TRÌNH CỦA SINH, TỬ, VÀ SAU KHI CHẾT

Chu trình huyễn ảo vô tận của sống, chết, và sau khi chết được biết là samsara trong Phạn ngữ. Đôi khi nó là hình ảnh của một bánh xe quay không ngừng. Chu trình luân hồi được chia thành bốn giai đoạn hay lộ trình (lối đi) tiêu biểu cho những giai đoạn khác nhau của kinh nghiệm:

1. Lộ trình của cuộc sống này bắt đầu vào lúc thụ thai và kết thúc với “bệnh tật chết người”, hay do bất cứ những gì gây ra cái chết. Mỗi khoảnh khắc của hiện hữu cũng được xem là một “lộ trình của cuộc sống” xuất hiện và sau đó tan biến trong một chuỗi vô tận của những sự kiện biến đổi, chuyển động giữa sinh và tử, thức và ngủ, hạnh phúcđau khổ.

2. Lộ trình của lúc cận tử bắt đầu với bệnh tật hiểm nghèo đi qua sự hóa tán thô và tế khi thành phần cấu thành thân thể, tinh thầncảm xúc tan rã. Giai đoạn này kết thúc vào lúc ngừng thở. [2]

3. Lộ trình của bản tánh tối thượng bắt đầu lúc “tánh quang minh của nền tảng” – thật tánh của tâm, như nó là – xuất hiện. Giai đoạn này được đặc tính hóa bởi sự xuất hiện tự nhiên của “cái thấy quang minh” – sự xuất hiện không chỉ là ánh sáng mà còn là âm thanhhình ảnh. Nó kết thúc khi những cái thấy này tan biến. Tuy nhiên, người thường sẽ không nhận ra cái thấy quang minh như sự biểu lộ của bản tánh họ. Thay vào đó, họ sẽ hoàn toàn nhận thức chúng là những đối tượng của sợ hãi và bám luyến. Với họ, kinh nghiệm sẽ chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, vì họ sẽ rơi vào vô thức.

4. Lộ trình chuyển tiếp, hay bardo; bắt đầu khi cái thấy xuất hiện tự nhiên tan hòa hoặc khi chúng ta lấy lại ý thức. Nó kết thúc với sự thụ thai của kiếp sống kế tiếp.

Trong những kinh văn của Phật giáo Tây Tạng, mỗi trong bốn giai đoạn hay lộ trình chính được mô tả ở trên được xem là một bardo – một lộ trình trung gian hay chuyển tiếp – vì mỗi chuyển tiếp xuất phát giữa hai giai đoạn khác nhau. Thế nên, ngay cả cuộc sống cũng được gọi là một bardo, nghe có thể lạ lùng, nhưng đơn giản nó là sự chuyển tiếp giữa sống và chết. Song, nhiều người dùng từ bardo dành riêng cho khoảng hở giữa chết và tái sanh – một thời điểm quan trọng, nhiều kinh nghiệm sâu sắc và đem lại nhiều cơ hội thiết yếu để quyết định kiếp tương lai của họ. Vì thế, trong quyển sách này, tôi cũng dùng thuật ngữ Bardo để giải nghĩa lộ trình thứ tư, khoảng trung gian giữa cái thấy thoáng qua bản tánh tối hậu và sự tái sanh kế tiếp.

MỘT CÁI NHÌN THOÁNG QUA VỀ BARDO

Để làm sáng tỏ những việc như đi qua ngưỡng cửa của cái chết và những gì chúng ta có thể gặp ở thế giới bên kia, tôi đã phiên dịch và kể lại một số câu chuyện kì lạ trong văn học Phật giáo Tây Tạng về các thiền giả đã bỏ thân vật chất của họ trong nhiều ngày vào lúc du hành qua thế giới vô hình. Các thiền giả này được biết đến như delogs, hay những người “trở về từ cõi chết” quay trở lại thân họ và ghi lại những cuộc hành trình phi thường có thể nối những bậc thang thấp nhất của cõi địa ngục đến cõi tịnh độ siêu phàm.

Cõi tịnh độ là thiên đường cực lạcan bình không thể tả mà chư Phật, những đấng giác ngộ, hiện thân qua lòng bi các Ngài để những người sùng mộ có thể nhận tái sanh vào đây không cần phảinhận thức cao. Được tái sanh vào cõi tịnh độ không giống như đạt giác ngộ. Nhưng một khi được ở đó, chúng ta sẽ tiếp tục tu hành tiến đến giác ngộ.

Một số vị delog kể về việc viếng thăm cõi tịnh độ, ở đó họ nhận được giáo lý từ chư Phật. Một số delog khác dùng nhiều thời gian hơn để mô tả bardo, với những phiên tòa phân xử, và nhiều cõi để người bình thường có thể nhận tái sanh, như cõi của ngạ quỷ hay cõi thiên.

Sự mô tả của những vị delog đã làm cảm động sâu xa. Đa số delog là những người mộ đạo sâu sắc và được gửi lại thế gian bởi những bậc giác ngộ để kể cho chúng ta về những gì nằm ở phía trước và nên chuẩn bị ra sao. Mỗi câu chuyện là một tặng phẩm cho việc mở ra cánh cửa vào sự bao la của tương lai chúng ta vượt lên cuộc sống hiện nay, những vị delog mở rộng tiền đồ và gợi cảm hứng cho chúng ta để cải thiện cuộc sống mình.

Qua đôi mắt của những vị delog chúng ta được chia sẻ bí mật về những loại sự việc sẽ có tính chất quan trọng trong việc xác định chúng ta sẽ tái sanh ở đâu. Chúng ta chứng kiến năng lực thực hành tâm linh để tẩy trừ những hành động và tư duy bất thiện. Chúng ta nhận ra năng lực của cầu nguyện giúp đỡ cái chết được yên tâm tái sanh tốt hơn. Chúng ta quan sát trong thực tế là một cách thiện xảo để mở rộng tâm mình ra sao – cho phép những vị Lama và các Đấng ban phước can thiệp vì lợi ích của chúng sanh trong bardo và dẫn dắt họ đến những cõi tịnh độ.

Đa số delog mang về những thông điệp từ những người thân, bạn bè và họ hàng đã chết. Những người này cầu xin tăng thêm sức mạnh thông điệp cơ bản để thay đổi sự sống của họ trong khi chúng ta sống trong thân người và có cơ hội thay đổi.

Ở phương Tây, những người sống lại từ cái chết lâm sàng đôi khi có “những kinh nghiệm cận-tử” (NDEs). Mạêc dù NDEs cũng có những kinh nghiệm tương tự như delog, họ chỉ có thể kéo dài vài phút, trái lại delog thường kéo dài kinh nghiệm nhiều ngày. Delog cũng có vẻ như được cho là thể nhập nhiều và xa hơn trong cõi giới sau khi chết

Nhiều bản văn của delog đã đến tay tôi. Tuy nhiên, trong sách này vì không gian có hạn, tôi chỉ có thể kể những phần nhỏ của họ. Những mô tả bạn sẽ đọc ở chương 2, 3, và 5 thường có thời đại từ thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 (ngày tháng không có giá trị cho mọi bản văn). Tuy nhiên, những delog không phải là một hiện tượng mới cũng không phải dành riêng cho người Tây Tạng. Họ đã được thảo luận trong giáo lý của Đức Phật.

Khi đọc những mô tả, một số bạn có thể tự hỏi tại sao những câu chuyện lại nhuốm màu sắc của Tây Tạngvăn hóa Phật giáo, được mô tả bằng hình tượng Tây Tạng. Làm sao những delog gặp gỡ và hiểu biết người Tây Tạng? Tại sao những quan tòa tương tự như mô tả bằng hình tượng của đạo Phật?

Câu trả lời chính là: địa thế bày ra trước mắt ta trong bardo là sự phản chiếu của thói quencảm xúc của chúng ta. Bất cứ những gì chúng ta thấy và kinh nghiệm sau khi chết đều tương ứng với lề thói văn hóahệ thống niềm tin đã hình thành sự suy nghĩ của chúng ta. Tất cả chúng ta – dù già hay trẻ, sùng đạo hay vô thần, cộng sản hay tư bản – đều đắm chìm trong thói quen thu được của nhận thức. Vì những delog toàn là Phật giáo Tây Tạng, hay quen thuộc với Phật giáo, họ đã nhận thức sự vật từ viễn cảnh đó.

Tuy nhiên, trong khi những chi tiết của thói quen bất đồng với nhau, tất cả chúng ta cùng thiếu quan tâm rằng mình xuất xứ từ đâu – bởi tâm lý của việc thấy thế gian trong dạng thưởng hay phạt cho sự đúng hay sai. Chúng ta thường xuyên bị dồn ép giữa hy vọngsợ hãi dưới đôi mắt thấu suốt của một số người được cho rằng có quyền cao hơn hay quan tòa. Nhận thức của chúng ta bị thấm nhập trong xét xử tâm lý này. Đó là điều tại sao khi vô đạo đức, chúng ta sợ bị phân xử, và sau khi chết chúng ta sẽ nhận thức một phán xét tuyên án khắc nghiệt.

Trong thực tế, không có xét xử bên ngoài. Không có tuyên án. Những kinh nghiệm sau khi chết đơn giản là tiền lời chúng ta kiếm được từ tâm thức và những đầu tư cảm xúc của mình. Đó là điều tại sao vị Tổ vĩ đại Shantideva (Tịch Thiên) nói về những cõi địa ngục:

Ai xây dựng nên mọi nền sắt nóng bỏng này [của địa ngục]?
Những ngọn lửa này xuất phát từ đâu?
“Tất cả chúng [chỉ là sự phản chiếu] tâm bất thiện của ngươi,”
Chính Đức Phật đã nói như thế.

Tất cả chúng ta có thể thấy một số năng lực cao hơn trong bardo. Nó sẽ hình thành tương ứng với thói quen của chúng ta. Những bản văn Tây Tạng mô tả một tòa án chủ trì bởi Pháp vương và những trợ lý của Ngài, các Thần Chết. Những nền văn hoá và tín ngưỡng khác hình dung một thần thánh ngồi xét xử, một quyển sách những điều thiện và tội lỗi do thiên thần ghi chép, hoặc cân việc làm trên một bàn cân. Những kinh nghiệm cận tử của người phương Tây thường mô tả “cuộc sống được thấy lại” trong đó họ được khuyến khích để phán xét cuộc sống của họ. Tuy nhiên, cái chung hết là luật phổ quát rằng những thói quen và hành động tích cực đều kết quả trong hoan hỷ, trong lúc tiêu cực bị dẫn đến đau khổ.

NHẬN TÁI SANH

Sau khi xuất hiện từ bardo, chúng ta sẽ thọ tái sanh với một thân thể và nhân dạng khác. Giống như kinh nghiệm của chúng ta trong bardo tùy thuộc vào hành động nghiệp, tâm thức, những khuynh hướng cảm xúc và những thành tựu tâm linh của mình, cũng những yếu tố này quyết định lực ở phía sau sự tái sanh kế tiếp của chúng ta.

Chúng ta có thể nhận ra thật tánh trong bardo – tánh giác nội tại của chúng ta như nó là – hay thực sự trong bất kỳ bốn lộ trình nào của cuộc sống. Nếu có thể duy trì nhận biết đó, thì chúng ta sẽ được toàn giác, vĩnh viễn thoát khỏi tái sanh vào chu trình của ảo tưởng. Tuy nhiên, giác ngộ phải mất nhiều năm hoàn toàn cống hiến; nó không thể đạt được nếu chỉ tham gia hội thảo cuối tuần hay thực hành thiền định vài phút trong vài năm. Những người tinh thông đã thành tựu – những bậc thầy cao cấp của thực hành tâm linh – có thể đạt giác ngộ và sau đó nhận tái sanh bằng sự lựa chọn hơn là vì nghiệp trước của các Ngài. Chuỗi thói quen nghiệp của các Ngài sẽ ngưng lại hay vượt trội tốt hơn. Với các Ngài, hiện tượng hiện hữu (mọi sự xuất hiện để tồn tại trong thế giới hiện tượng) không là gì cả, mà chỉ là sự phóng chiếu những phẩm tính của tâm các Ngài.

Nếu giữ khao khát giác ngộ, và nếu an trụ trên con đường công đức, một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ đạt tới mục đích này. Nhưng bây giờ, con đường đã chọn của các vị tinh thông đã thành tựu thì không khả thi cho người bình thường như chúng ta, những người không đạt được tâm linh to lớn. Theo nhân quả của nghiệp trước, người bình thường bị buộc nhận tái sanh vào một trong sáu cõi luân hồi (được mô tả trong chương 6, “Tái sanh”).

Người đã rèn luyện tâm linh và có nhiều công đức sẽ hưởng những kiếp tương lai lành mạnh trong những cõi giới hoan hỷ. Nếu chúng ta tử tế, quan tâm, hữu ích, thông tuệ, và nếu áp dụng quan điểm công đức vào thực hành bằng lời nóihành vi, chúng ta sẽ hưởng tái sanh trong những cõi an bình, hoan hỷ và hữu ích. Nếu trong cuộc sống này chúng tathực hành suy nghĩ, quán sát, cảm nhận và tin vào sự hiện diện của một cõi tịnh độ, chúng ta sẽ được sinh vào cõi tịnh độ, vì những thói quen tinh thầnchúng ta đã trau dồi. Một cõi tịnh độ như vậy sẽ không là cõi tịnh độ tối hậu của trạng thái giác ngộ, mà là một biểu hiện cõi tịnh độ của sự an bìnhhoan hỷ lớn lao. Chúng ta không chỉ hưởng được những phẩm tính của thế giới hoan hỷ mà còn tỏa ra ánh sáng vô tận của cõi tịnh độ đến những người mở ra để tiếp nhận. Chúng ta vẫn sẽ chịu sự kiểm soát của luật nghiệp báo, nhưng nó sẽ là chu trình của hạnh phúc. Đi theo con đường sống như vậy là thực tiễn và nhiều người có thể đạt được, và chúng ta phải ưu tiên thực hiện chúng.

Còn về những người sống với đầy cảm xúc tiêu cực thì sao? Nếu tâm chúng ta cho phép sân hận, tham lam, hay si mê, chúng ta sẽ bị buộc đối diện với một hậu quả rất khủng khiếp. Khi du hành qua bốn lộ trình chuyển tiếp, hậu quả khốc liệt của tâm tiêu cực sẽ chỉ như mang kính màu làm chúng ta thấy mọi sự đều đen tối. Thay vì thấy mọi sự quen thuọâc chung quanh mình khi còn sống mà chúng ta biết, chung quanh chúng ta tất cả sẽ là những hình ảnh, âm thanh, và kinh nghiệm sợ hãi, đau khổ. Những hiện tượng sẽ xuất hiện như vậy khởi lên trong tâm thức như một kết quả của trạng thái tinh thần phổ biếnchúng ta nuôi dưỡng trong cuộc sống.

Nhiều người chúng ta, dù chấp nhận nó hay không đều bị thu hút và yêu mến nó như một tập hợp tâm – ngày này qua ngày khác. Thường nó là một tiến trình vô thức. Mặc dù bên ngoài chúng tathể không nghĩ chính mình là người “xấu”, chúng ta có thể thầm kín đầm mình trong những cảm xúc độc hại, ích kỷ, và thèm khát do sự thúc đẩy của văn hóa hiện đại. Chúng ta phải ngưng lại việc lừa gạt chính mình và bắt đầu thay đổi con đường của mình ngay từ hôm nay, trong khi chúng ta vẫn đủ may mắn còn trong thân người và có trình độ lựa chọn. Nếu không thì khi chúng ta chết sẽ không thể tạo thay đổi vì khuynh hướng nghiệp sẽ làm chủ. Chúng sẽ buộc chúng ta tái sanh lần nữa – có thể trong cõi phi nhân, ở đó những sinh linh không thể tạo được tiến bộ. Chúng ta sẽ lang thang qua chu trình sinh, tử, và tái sanh bất tận, đầy rẫy đau khổ và khích động.

BIẾN ĐỔI TƯƠNG LAI CHÚNG TA

Việc quan trọng để cân nhắc về những cõi khủng khiếp hay tịnh độchúng ta có thể du hành sau khi chết hay nhận tái sanh không là những hệ thống thế giới bên ngoài định vị ở đâu khác. Kinh nghiệm hoan hỷ hay đau khổ trong những hệ thống thế giới khác nhau sau khi chết chỉ là sự phản chiếu của những khuynh hướng nghiệp. Nó giống như một hành trình trong mộng, tạo tác bởi ấn tượng tâm lý quen thuộc của chính chúng ta. Hãy mang điều này trong tâm bất cứ khi nào chúng ta biết về những kết quả của nghiệp. Tâm phát sinh những kinh nghiệm của nó về hạnh phúcđau khổ sau khi chết như một kết quả của những khuynh hướng thu gom và tăng cường trong cả đời thành đạt. Những kinh nghiệm này sản sinh bởi tâm nên cũng chiếm chỗ trong tâm chẳng phải nơi khác.

Điều quan trọng không kém là chừng nào chúng ta còn sống thì còn có thể cải thiện và thay đổi tương lai của mình. Lẽ dĩ nhiên chúng ta sẽ luôn là chủ thể không tránh khỏi những giới hạn buộc phải chấp nhận luật của hiện tượngvật chất. Nhưng khi chết, tâm chúng ta sẽ ít bị hạn chế bởi những lực bên ngoài, nên sẽ bị dồn đuổi bởi những khuynh hướng tinh thần thâm căn cố đế mà chúng ta đã nuôi dưỡng trong quá khứ. Đây là lý do hoàn toàn đúng tại sao cách tốt nhất để cải thiện tính chất của sinh, tử, và sau khi chết của chúng ta là làm việc trên những thói quen cảm xúcnhận thức, từ tiêu cực thành tích cực.

Vậy, có ba lựa chọn mở ra cho chúng ta lựa chọn trong lúc vẫn còn có một số thời gian:

Chúng ta có thể tiếp tục chịu đựng đau đớn và khổ sở của cuộc sống này như chúng ta thường làm, không nhận cơ hội để tạo tiến bộ. Nghiệp của rối loạn tâm thức, cảm xúc phiền não và những hoàn cảnh bên ngoài sẽ kiểm soát định mệnh tương lai của chúng ta. Do vậy, sẽ không có cơ hội cho hạnh phúc thật sự phát sinh.

Chúng ta cố gắng bảo vệ trạng thái hạnh phúc nhất và lành mạnh nhất mà chu trình hiện hữu thông thường trong sinh tử có thể cung cấp. Nếu chúng ta duy trì một đời sống an bình, hoan hỷ, hữu ích và thương yêu, thì một tương lai hạnh phúc hơn, lành mạnh hơn chắc chắn sẽ là kết quả, tối thiểu trong một lúc.

 Hoặc chúng ta có thể đi vượt lên chu trình hiện hữu tạm thời này, sinh tử của cuộc sống, và bảo đảm trạng thái vĩnh cửu của an bìnhhoan hỷ tối thượng, được gọi là niết bàn. Một thành tựu như vậy chỉ có thể xuất phát qua nhận thức của chân lý tuyệt đối, đạt được qua thiền định và được hỗ trợ bởi cách suy nghĩ, cảm nhận đúng đắnphục vụ người khác.

Nếu để tâm chúng ta quay mặt về hướng đúng, thì bất cứ bước đi nào đều sẽ dẫn chúng ta đến gần hơn mục tiêu đã định.

Sự thiền định và thực hành được mô tả trong sách này chủ yếu dựa vào những nghi lễ của Đức Phật Vô Lượng Quang (Phạn, Amitabha – A Di Đà) và cõi Tịnh Độ Cực Lạc (Sukhavati) của Ngài. Nhưng có những vị Phật và cõi Tịnh Độ khác mà nghi lễ có thể sử dụng, và thậm chí sự cầu nguyện của những người không phải Phật giáo thuộc hệ thống khác nhưng có niềm tin có những phẩm tính tương tự cũng sẽ có kết quả. Việc quan trọng là chuẩn bị trước bằng cách thiền định đều đặn về một nghi lễ kết hợp với một nguồn ban phước.

Trong sách này, thuật ngữ nguồn ban phước ám chỉ bất cứ đối tượng được cầu nguyện sùng kính nào, và quy y là một nguồn bảo vệban phước. Nguồn ban phước có thể là bất kỳ nguồn chân thật, bên trong, hay cao hơn như một vị Phật, bồ tát, thánh nhân, hiền triết, hay vị thầy tinh thông. Bất cứ đối tượng tâm linh nào đều sẽ là một nguồn ban phước hùng mạnh nếu có những phẩm tính tích cực và được đánh giá bởi tâm là tích cực. Người sắp chết và đã chết cũng như những người giúp họ phải dựa vào nguồn ban phước như sự hỗ trợ cho việc cầu nguyện, thiền định, và nghi thức của họ. Nguồn ban phước tối thượng là trong chúng ta vì tất cả chúng ta đều có tánh giác ngộ. Tuy nhiên, trước khi nhận ra tiềm năng của mình, chúng ta phải dựa vào một nguồn ban phước bên ngoài để đánh thức bản chất ban phước và những phẩm tính của mình.

Trong Phật giáo Tây Tạng, lập lại bài nguyện của một nguồn ban phước như cầu nguyện danh hiệu của Đức Phật Vô Lượng Quang, là một cách thông dụng để đạt tới và tiếp nhận ban phước từ Đức Phật. Đức Phật Vô Lượng Quang nguyện giải thoát chúng sanh nào khẩn cầu danh hiệu Ngài với lòng sùng kính như người mẹ sà vào cạnh con ngay khi nghe con kêu “Mẹ ơi!”

Có lần, một bạn đồng nghiệp của tôi cầu Ngài Yukhog Chatralwa, một vị thầy thiền định vĩ đại, ban cho ông ta một số hướng dẫn về Dzogchen (giáo lýthực hành nguyên sơ thuộc phái Nyingma của Phật giáo Tây Tạng). Không nói một lời về Dzogchen, Ngài Chatralwa trả lời:

Trước tiên ông nên niệm bài nguyện hồng danh của Đức Phật Vô Lượng Quang một ngày một trăm lần với lòng sùng mộ mạnh mẽ. Sau đó cố gắng tăng lên hai trăm, ba trăm lần v.v.. Nếu có thể thực hành ngày càng nhiều hơn, sẽ phải đến lúc bất kỳ những gì ông làm, Đức Phật sẽ luôn ở trong hơi thở ông và sẽ cảm thấy sự hiện diện của Phật trong tâm ông. Nếu xảy ra điều này, thì khi ông chết, ông sẽ chết với danh hiệu của Đức Phật và cảm nhận sự hiện diện của Ngài, vì công đức, sự ban phước của Đức Phật, và thói quen sùng mộ của ông, mọi nhận thức của ông sẽ xuất hiện như cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Phật Vô Lượng Quang. Tương lai ông sẽ được an bìnhhạnh phúc. Ông sẽ trở thành một nguồn lợi ích cho nhiều người khác. Không phải điều này là kỳ diệu sao?

Dù không nhận ra lời Ngài vào lúc đó, nhưng nhiều năm sau tôi bắt đầu hiểu lời của Ngài đầy ý nghĩathâm sâu biết bao.

Nếu chúng ta rèn luyện trong sự tỉnh thức của cái thấy tất cả như một vị Phật và cõi tịnh độ của Ngài, thì thậm chí nếu gặp những hình ảnh, âm thanh, hay cảm nhận tiêu cực trong bardo, chúng sẽ chẳng có quyền năng làm hại chúng ta, và mọi sự sẽ chuyển đổi thành hiện tượng tích cực. Nó giống như một cơn ác mộng; nếu có thể nhận ra nó như một giấc mộngảo ảnh, chúng ta có thể nhanh chóng làm cho nó không còn hiệu lực, khiến những kẻ tấn công tan biến như sương mù trong ánh nắng mặt trời. Trong cùng cách, nếu có thể nhận ra bất kỳ kinh nghiệm khủng khiếp nào của bardo như một ảo ảnh hay một cõi tịnh độ, nó sẽ trở thành vô hiệu hoặc sẽ chuyển thành tích cực. Sự khủng khiếp của Thần Chết sẽ chuyển thành những thiên thần giác ngộ của trí tuệtình thương, như chúng ta sẽ thấy về sau này.

Nhưng bây giờ chúng ta phải bắt đầu rèn luyện trước khi cái chết xảy đến. Nếu thực hành mỗi ngày hay nhiều lần mỗi ngày, chúng ta sẽ không bị lạc lối khi giờ khắc quan trọng xảy đến.

NHỮNG NGHI LỄ CHO NGƯỜI CHẾT VÀ SẮP CHẾT

Chúng ta đã thấy có thể làm điều gì đó để giúp đỡ chính mình trong việc dàn xếp sự chuyển tiếp quan trọng của cái chết. Nhưng còn về cái chết của những người khác, kể cả những người không có một cơ hội để thực hành trước bất cứ giáo lý nào thì sao? Chúng ta, những người đang sống có thể giúp đỡ họ hay không?

Mọi tôn giáo đều có nghi lễnghi thức hay những bản văn linh thiêng nhằm mục đích hỗ trợ cho người sắp chết và chết, cũng là một nguồn an ủi cho những người còn sống. Chẳng hạn trong truyền thống Đạo Do Thái, người sắp chết phải tụng niệm bài nguyện sám hốiân hận, còn những người khác sẽ giúp họ làm điều ấy nếu người đó không còn năng lực. Sau cái chết, người sống sẽ tụng niệm bài Kaddish, bài nguyện bằng tiếng Hebrew (Do Thái cổ) tán thán danh hiệu Thượng Đế. Theo Đạo Hồi, người ta tụ hội để cúng tuyển tập bài nguyện nhằm có được sự tha thứ linh thiêng của người chết. Trong đạo Thiên chúanghi lễ ban phước xức dầu cho người cận tử, cầu nguyện cho linh hồn của người chết, và cho đám tang tập thể. Phật giáo Tây Tạng cũng vậy với một truyền thống nghi lễ phong phú về cái chết.

Suốt hành trình cuộc đời dài và bất ổn, tôi có nhiều kinh nghiệm trực tiếp tiếp xúc với cái chết của những vị thầy tâm linh vĩ đại, những bạn bè thân thuộc, và những người lạ. Một số người được kính trọng hoặc có năng lực thì có rất nhiều người thương tiếc. Những người khác thì nghèo, không được quan tâm và không ai biết. 

Từ lúc lên năm, tôi sống và lớn lên ở Tu viện Dodrupchen, một tu viện thiền địnhnghiên cứu nổi tiếng ở phía Đông Tây Tạng cùng với những tăng ni bạn bè, tôi định hướng toàn bộ cuộc đời mình vào việc nghiên cứu Phật giáo, cầu nguyệnthiền định. Sau khi hoàn tất giai đoạn chuẩn bị, chúng tôi học và thiền định về những giáo lý cao hơn và bắt đầu phục vụ cộng đồng. Chúng tôi cũng được dạy giúp đỡ người chết và những người giúp họ tiếp tục tồn tại thông qua những bài nguyện sùng kính, những nghi lễ long trọng, những giáo lý truyền thốngthiền định theo cẩm nang chi tiết phục vụ cái chết của Phật giáo Tây Tạng

Cố gắng chăm sóc người chết bằng cách thực hiện những nghi lễ cho họ có thể là việc buồn nhất nhưng cũng là khoảng thời gian thanh bìnhchân thành nhất trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta không thèm muốn mong cầu thứ gì khác vì chúng ta khơi dậy tận đáy lòng mình tất cả sự giúp đỡ mà ta có thể cho chuyến hành trình trọng yếu của người chết đi vào thế giới chưa biết. Về phía người sắp chết hay người đã chết, những lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim thốt ra bằng toàn bộ thân và ý. Chân lý của cuộc sống, sự mong manh của nó được phơi bày trần trụi trước mắt chúng ta. Về phía người quá cố, tất cả những thứ cấu thành nên phẩm giá, sự nghiệp, và tiền bạc đều tiêu tan một cách không mong đợi. Ngay cả cái thân yêu quý nhất cũng trở nên thấp kém, nằm lạnh giá, cứng ngắc, và bất động im lìm, không còn thở – chết.

Nghi lễ cho người chết và sắp chết là một trong những phục vụ cộng đồng quan trọng nhất mà chúng ta cử hành. Tôi thường phụ tá những vị lama thâm niên trong việc thực hiện nghi lễ, nhưng đôi khi tôi cũng dẫn dắt một nhóm lama. Thỉnh thoảng tôi dẫn dắt kỹ lưỡng nghi lễ phục vụ kéo dài vài tuần (như phần đại cương trong chương 9). Đa số thời gian chúng tôi sử dụng một hay hai giờ cho cúng dường phục vụ vắn tắt (như đã cung cấp trong phụ lục B).

Những nghi lễ cho người chết được thực hiện ngay bên cạnh người sắp chết hay gần xác chết. Mọi nghi lễ đều đi theo một khuôn mẫu cơ bản như nhau: chúng ta bắt đầu mở rộng lòng mình trong sự sùng kính đến nguồn ban phước, như của Đức Phật Vô Lượng Quang, sau đó hướng tâm ta đến người sắp chết hay đã chết với lòng bi mãnh liệt và tình thươngđiều kiện từ tận đáy lòng mình. Với thái độ sùng kính và bi mẫn này, chúng ta bắt đầu nghi lễ chính: niệm những bài nguyện, thiền định, và tiếp nhận sự ban phước từ nguồn ban phước cho chính mình và người quá cố. Cuối cùng, chúng ta thấy, cảm nhận, và suy niệm tất cả là một với an bình vĩ đại. Chúng ta kết thúc bằng việc cúng dường mọi công đức đã tạo ra cho người chết và cho tất cả những bà mẹ-chúng sanh (tất cả chúng sanh, trong những tiền kiếp đã từng là mẹ của chúng ta) và bằng việc lập nguyện mong ước rằng người quá cố được tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc hay trong một thân người hạnh phúc.

Tôi thậm chí không dám gợi ý cho độc giả có một ấn tượng là tôi có bất kỳ năng lực nào thay đổi được định mạng của người khác, hoặc tôi có bất cứ sự thấu thị đặc biệt nào về người sắp chết hay đã chết sẽ đi về đâu. Mà vì lòng tin của tôi vào giáo lý Đạo Phật, sau khi thực hiện những nghi lễ này với lòng sùng kínhtình thương mạnh mẽ, tối thiểu, bản thân tôi thường cảm nhận sự an bình to lớn, tôi cũng cảm thấy sự biết ơn: “Tôi may mắn biết bao có được cơ hội ở với người này vào thời khắc cần thiết, quan trọng nhất của họ để cố gắng đưa tay giúp đỡ tốt nhất mà tôi có thể”. Cùng lúc tôi luôn quan tâm không tự đẩy mình vượt lên giới hạn tinh thần, thể xác và tâm linh của tôi.

Nhiều nghi lễ cho cái chết là những cơ hội của đại hoan hỷ với một không khí kỷ niệm hầu như mọi người nhớ lại tất cả sự an bìnhhạnh phúc đã đem lại cho chính họ và người khác trong lúc sống. 

Nhưng cũng có nhiều khoảnh khắc buồn bã, sầu muộnthất vọng to lớn, khi rào cản giữa sự sống và chết quá lớn khiến không ai có thể với tới người chết, thậm chí nếu có thể chạm vào thân xác họ, thì tâm họ vẫn đang chìm vào bóng tối sâu thẳm, một thế giới cô độc và không hay biết. Ngồi bên cạnh tử sàng, nhìn kỹ vào khuôn mặt mong manh của cuộc sống, không để lại cho chúng ta một góc nào để trốn. Nó luôn là một lời kêu gọi đánh thức mạnh mẽ.

CÁI CHẾT CỦA MỘT VỊ THẦY VĨ ĐẠI

Cuộc gặp gỡ trực tiếp cái chết lần đầu của tôi là một nguồn hoan hỷ và kỷ niệm to lớn. Có một vị đại Lama được gọi là Sonam Tragpa trong bộ tộc Wangrol, cộng đồng bộ tộc của mẹ tôi ở tỉnh Golok, phía Đông Tây Tạng. Ngài được biết là Pushul Lama với người sinh ra ở bộ tộc. Ngài sống và giảng dạy ở một tu viện nhỏ, hẻo lánh và ở cách tu viện chúng tôi hai ngày đường đi bằng ngựa. Ngài là một vị thầy và học giả vĩ đại, tác giả của những bộ luận giảng, và là một vị thầy của thiền định tantric và Dzogchen, nhưng sự cầu nguyệnthiền định chính của Ngài là về cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật Vô Lượng Quang

Ngài Pushul Lama viên tịch khoảng được sáu mươi tuổi. Tôi mới mười tuổi. Khi những người đưa tin đem tin đến tu viện chúng tôi, tôi cùng với thầy, Ngài Kyala Khenpo và những người khác, cưỡi ngựa phi nước đại tới Ngài. Chúng tôi đến nơi ẩn cư của ngài bị trễ vào chiều hôm đó và gặp tăng, ni, cư sĩ mộ đạo của Ngài đang than khóc.

Tôi có một mối liên hệ đặc biệt với Ngài Pushul Lama. Ngài là một trong những vị thầy nhận ra tôi không lâu sau khi tôi được sinh ra như một hóa thân, hay tulku của vị thầy chính của Ngài. Ngài cũng là vị lama quan trọng nhất của nhóm bộ tộc mẹ tôi, nên tôi có nghĩa vụ đặc biệt chăm sóc phục vụ đám tang Ngài.

Được hướng dẫn bởi Ngài Kyala Khenpo, tôi đi một mình vào phòng của lama. Thân Ngài nằm trên giường trong tư thế sư tử ngủ, một tư thế thiền định. Tôi còn nhỏ nên không nghĩ nhiều về điều đó, nhưng tôi cảm thấy khắp phòng và toàn bộ khu vực tuyệt đối an bình. Tôi chạm vào vùng ngực Ngài và cảm thấy hơi nóng, dù Ngài đã viên tịch hơn 48 giờ trước đó. Đó là một dấu hiệu tâm Ngài vẫn trong sự thiền định thể nhập nơi thân Ngài. Tôi nói cho Khenpo, Ngài nói, “không ai được đi vào phòng Ngài hay gây tiếng ồn quanh nhà, cho đến khi sự thiền định của Ngài kết thúc.” Mọi loại cầu nguyện và những nghi lễ vẫn tiếp tục, nhưng ở những lều cách xa chùa của lama cư ngụ. Theo truyền thống, thông báo sự viên tịch của một vị đại lama được giữ bí mật trong nhiều ngày, nhưng trong trường hợp này thì không thể. Tin buồn đã lan truyền rất nhanh khắp vùng đất của bộ tộc.

Sáng hôm sau, khi tôi kiểm tra lại Ngài Pushul Lama, tôi thấy vùng ngực không còn ấm, nên bốn vị tăng đã chọn được gọi vào. Họ tắm rửa xác Ngài bằng nước màu vàng nghệ, lau khô bằng vải trắng mới, và hoàn tất mọi chuẩn bị cần thiết cần có để duy trì thân xác trong nhiều ngày. Sau đó họ đặt thân Ngài ngồi trên một ngai trong tư thế thiền định hoa sen, mặc áo choàng tu sĩ với một mũ miện long trọng trên đầu Ngài. Hai tay Ngài bắt chéo nơi ngực, cầm một chày (một quyền trượng của nghi thức) và một chuông. Hoa, đèn, thực phẩm, và những đồ cúng dường khác được sắp xếp trên hai bàn thấp phía trước Ngài. Tôi hoàn toàn tin chắc rằng lama sẽ thích đám tang đơn giản nhất, nhưng nó lại trở thành một nghi lễ tỉ mỉ công phucộng đồng mong muốn như vậy.

Mặc dù chỉ khoảng ba mươi vị tu sĩ sống trong nơi hẻo lánh, những dòng người từ mọi tầng lớp xã hội vẫn đến và đi từ những nơi xa bằng những lều bạt du cư, cầu nguyện và than khóc cả ngày lẫn đêm.

Trong lúc đó, chúng ta tìm thấy một tờ giấy nhỏ với thủ bút của Ngài. Nói rằng, “Ngay khi Ta chết, Ta sẽ tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Ta đã tụng niệm 108 lần những bản văn về sự Viên mãn của Trí tuệ [Prajnaparamita trong 15 quyển] và thiền định về ý nghĩa thâm sâu của kinh văn trong suốt đời này. Do vậy, tên của Ta sẽ là Bồ Tát Sherab Nyingpo [Trái tim Trí tuệ]. Bất cứ người nào cầu nguyện đến Ta với lòng sùng kính, Ta sẽ bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm họ phải đối mặt lúc còn sống. Ta sẽ dẫn dắt họ đến cõi cõi Tịnh Độ Cực Lạc khi họ chết.”

Ngài kết thúc tờ giấy với bài nguyện năm dòng sau cho chính Ngài để tụng niệm bởi lòng sùng mộ.

Trong cõi Tịnh Độ Cực Lạc Ngài là Sherab Nyingpo.
Trong Xứ Tuyết [Tây Tạng] Ngài là Sonam Tragpa.
Trong tương lai Ngài sẽ được biết như Đức Phật Vô Lượng Thọ[3]
Con cầu nguyện đến Ngài – lama gốc của con.
Xin ban phước cho chúng con / con được tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Bức thư này thật tuyệt vời, vì như Pushul Lama được biết là tuyệt đối khiêm tốn và trung thực. Ngài chưa từng nói về bất kỳ điều gì mà Ngài không muốn nói. Điều đáng ngạc nhiên không phải là những gì Ngài viết, mà vì chúng ta luôn có lòng kính trọng cao nhất đối với Ngài, như tất cả chúng ta đã kính trọng Ngài nhất, mà là Ngài đã viết điều đó.

Vào rạng sáng ngày thứ tám, thân xác Ngài được hỏa thiêu trong một cấu trúc phân nửa tháp mới. Tăng và ni bận rộn thực hành nghi lễ hỏa thiêu. Một đám đông người thường bao phủ toàn bộ sườn đồi, cố gắng đi nhiễu quanh khu vực hỏa thiêu như một luyện tập sùng kính, tụng niệm những bài nguyện cho sự tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Toàn bộ không khí được cử hành thành một nghi lễ hoàn toàn sùng kính, vang dội những âm thanh của cầu nguyện và nhạc cụ. Tôi chưa bao giờ cảm thấy nhiều hoạt động tích cực của nỗi buồn sâu xa và nhiều âm thanh sùng kính chân thành từ nhiều trái tim hòa nhập thành một nghi lễ vĩ đại như vậy.

Sự viên tịch của Lama Pushul chứng minh sự thành tựu vĩ đại. Vào thời thiếu niên, Ngài đã quá hiếu động khiến gia đình đã phải trói Ngài để ngăn cản không làm tổn hại chính Ngài và người khác. Nhưng qua cầu nguyệnthiền định Ngài tự chuyển hóa chính mình và đạt được tự tin vô úy của người được tái sanh vào cõi Tịnh Độ Cực Lạc và dẫn dắt mọi người sùng mộ ở đó. Đến nay, tôi biết chưa có ai hiểu biết, hoan hỷ và tử tế hơn Ngài.

Nhờ đi theo gương Ngài, chúng ta cũng có thể chuyển hóa. Chúng ta cũng có thể đạt được hoan hỷ và tự tin vô úy trong cuộc sống và cái chết.

Tiến sĩ Elisabeth Kybler-Ross, một cựu bác sĩ tâm thần, người đã có quan điểm cách mạng hóa về cái chết và quan tâm đến người sắp chết ở Mỹ, phản ánh một cái thấy tương tự khi bà nói: “yếu tố duy nhất không thể bàn cãi của công việc tôi là sự quan trọng của cuộc sống. Tôi luôn nói rằng cái chết có thể từng là một trong những kinh nghiệm vĩ đại nhất. Nếu bạn sống mỗi ngày đều đúng suốt đời mình, thì bạn chẳng có gì phải sợ hãi.”
 
 

[1] Trong bản văn và bảng thuật ngữ, Tôi đã chỉ rõ một số thuật ngữ Tây Tạng hay Phạn ngữ có thể quan trọng cho một số độc giả quan tâm. Về Tây Tạng, trước tiên tôi cho một phiên dịch phát âm và sau đó một hệ thống chuyển tự có tính khoa học, trong đó tôi in hoa mọi chữ chính hay âm tiết Ming gZhi.
[2] Ðiều này được làm rõ hơn trong các giáo lý khác “sự xuất hiện của tánh quang minh nền tảng” bao gồm trong thời gian chết, nhưng trong giáo lý Dzogchen thì nó trong bardo của bản tánh tối thượng

[3] Ðức Phật Vô Lượng Quang và Ðức Phật Vô Lượng Thọ là những khía cạnh của cùng một vị Phật, dù các Ngài có những danh hiệu, thân tướng, và chức năng khác nhau. Hãy xem bảng thuật ngữ.

Sách liên quan:
Tạng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche - Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch

Chết Trong An Bình, Visuddhacara - Thích Tâm Quang dịch

Chết Có Thật Đáng Sợ Không, HT Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt

Giải Thoát Tự Nhiên - Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo, Tuệ Pháp Việt dịch



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31682)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10536)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12768)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16678)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10826)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22977)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12034)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12346)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11202)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10030)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11929)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9822)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11281)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13849)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9584)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10337)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11064)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9904)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9091)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9701)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19152)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14607)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9045)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10539)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10002)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24291)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10181)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9007)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8009)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15352)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10344)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9592)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18689)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10764)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13351)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10007)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9398)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15909)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant