Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lợi ích của Ðại Thủ Ấn và Thập Ðịa Bồ Tát

17 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11524)
Lợi ích của Ðại Thủ Ấn và Thập Ðịa Bồ Tát


Ðại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương IV
Kết Luận

 

Lợi ích của Ðại Thủ Ấn và Thập Ðịa Bồ Tát

Trước tiêni về lợi ích của các pháp dự bị tu tập, nền tảng của con đường giác ngộ và sự tái sanh trong nhàn cảnh.

Quán chiếu về sự may mắn có được thân người (đầy đủ lục căn) cũng như về cái chết và vô thường sẽ kéo ta ra khỏi những cám dỗ của cuộc đời. Suy nghĩ về nghiệp báoluật nhân quả giúp ta thấy rõ đâu là thiện ác và như vậy ta sẽ cố gắng giữ giới thanh tịnh. Quán sát về đau khổ luân hồi giúp ta nhàm chán ba cõi. Có nhàm chán thì chí nguyện giải thoát mới kiên cố. Thiền quán về tình thương, từ bi khiến Bồ Ðề Tâm tăng trưởng, cầu thành Phật độ khắp chúng sanh.

Tu tập Kim Cang quán, năng trì chú 100 chủng tự, sẽ gặt hái được nhiều điềm báo ứng bên ngoài hoặc trong chiêm bao, chứng nhận rằng nghiệp chướng đã tạo trong quá khứ được tiêu trừ. Cúng dường Mạn Ðà La, thân thể trở nên nhẹ nhàng, tâm thần sáng suốt, muốn ít, biết đủ, tích tụ công đức không thể tính đếm. Thiền quán Bổn Sư Du Già làm tăng trưởng lòng tin kính vị Thầy (Lama), nhờ đó sẽ cảm nhận được sự gia hộ giúp ta khai triển kinh nghiệm chánh kiến và Thiền Ðịnh. Sự tu tậpđứng đắntiến bộ hay không đều tùy thuộc vào lòng tin kính đối với vị Thầy.

Về phần tu tập chính yếu, lợi ích của Thiền Ðịnh giúp ta khai triển, chứng đạt ba đặc tính: an lạc, sáng suốtvô niệm. Lòng ham muốn về vật chất (quần áo, thức ăn, v.v...) giảm dần. Có thể đắc nhiều loại thần thôngngũ nhãn.

Những ý niệm vi tế, tán loạn bị mờ dần dưới ánh sáng của định lực, tựa như những ngôi sao dưới ánh sáng mặt trời.

Ngũ nhãn gồm: 1) Nhục nhãn, thấy được cảnh vật ở xa trước mắt, 2) Thiên nhãn, thấy được sự tái sinh trong quá khứ, vị lai, 3) Huệ nhãn, thấy rõ, trực nhận được Không tánh, 4) Pháp nhãn, thấy được căn tánh của mỗi chúng sanh cùng giáo pháp thích ứng để độ họ, 5) Phật nhãn, thấy rõ tất cả các pháp, tức nhất thiết chủng trí.

Về Thiền Quán, kết quả lợi ích thâu thập được tùy thuộc vào căn tánh của hành giả. Với hàng thượng căn thì Thiền Quán giúp họ trực chỉ, trực đáo Bồ Ðề. Hàng trung căn thì có lúc đi thẳng một mạch có lúc lại đi theo thứ tự. Hàng hạ căn thì tiến bước từ từ theo thứ tự sơ phát tâm cho đến Thập Ðịa Bồ Tát, tùy theo cách phát triển 12 (4 lần 3) phép quán Du Già (Yoga).

Năm con đường (ngũ đạo) [1] và mười cảnh giới (Thập Ðịa) của Bồ Tát dẫn đến Chánh Giác (Phật quả) có thể được chia theo nhiều cách, hoặc chứng đạt với nhiều phương thức khác nhau. Các phương thức tổng quát được tìm thấy ở các trường phái Phật giáo cổ Ấn và Tạng mật. Theo ngài Gampopa trong "Ngọc báu trang nghiêm giải thoát" thì hệ thống trên được chia làm 13 giai đoạn: giai đoạn (sơ) phát tâm, giai đoạn thành khẩn mong cầu, 10 giai đoạn Thập Ðịa Bồ Tát và Phật Ðịa. Trong trường phái "Ðại Thành Tựu" (Maha-Ati, Dzogtchen) lại chia theo cách khác, nhưng ở đây theo Ðại Thủ Ấn, ngũ đạo và Thập Ðịa được chia theo 12 pháp Du Già. Dù được phân chia khác nhau nhưng nền tảng căn bản và kết quả chứng đắc vẫn là một.

(Thông thường, khi đắc định, tức đạt được trạng thái an tịnh tâm), ta có thể tùy ý trụ trong trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm bất cứ lúc nào. Tuy vậy, có nhiều lúc 3 trạng thái trên không xảy đến trong khi Thiền Ðịnh và ngược lại, khi không cố ý Thiền Ðịnh thì nó lại xảy đến. Ta chưa hoàn toàn làm chủ được sự "tập trung vào một điểm". Ðây là trình độ sơ cấp của Thiền Ðịnh. Nếu ta đạt được tâm an tịnh, không bị xao lãng bởi ngoại duyên và bất cứ lúc nào Thiền Ðịnh, 3 trạng thái trên cũng đều hiện khởi. Làm chủ được sự "tập trung vào một điểm", đây là trình độ trung cấp của Thiền Ðịnh.

An trú tập trung không gián đoạn, không xao lãng, ngay cả trong trường hợp khẩn cấp, ý niệm vẫn bình lặng, trong tất cả các thời, hành vi, cử động và ngay trong giấc ngủ, tâm vẫn an trú không rời trạng thái an lạc, sáng suốt, vô niệm, đây là trình độ thượng cấp của Thiền Ðịnh.

Ðến đây ta có thể nghĩ rằng mình đã đạt được "Không-Thiền" [2] hoặc chứng ngộ. Nhưng đây chỉ có nghĩa là ta đã chứng đạt Thiền Ðịnh mà thôi, chưa phải thực sự thấu hiểu tánh Không (hay kiến tánh, nói theo danh từ Thiền tông). Những trạng thái Thiền Ðịnh ở trên được xem như thuộc hai con đường Tích Tụ và Chuẩn Bị. Vì chưa thấu hiểu hoàn toàn Tánh của tâm nên trạng thái (trống rỗng) mà ta đạt được chỉ là một đặc tính của Thiền Ðịnh. Cần phải tiếp tục tu tập lâu dài, xa lìa mọi bám víu thủ xả, dần dần những trạng thái trên sẽ trở thành thanh tịnh. Tất cả khái niệm dư hưởng về an lạc, sáng suốt, và vô niệm đều tan vỡ, tiêu hoại (vì trạng thái này hiện khởi và tan biến cùng lúc trong từng sát na), nhờ đó ta thấy được thực tại (tối hậu) của tánh Không. Nói theo cách khác, khi sự bám víu vào 3 trạng thái trên (cho rằng chúng có thật) được hóa giải bằng vô-khái-niệm, đưa tâm vào trạng thái Không-an-lạc, Không-sáng-suốt, Không-vô-niệm, thì lúc đó thực tánh của tâm được hiển lộ một cách thanh tịnh, tựa như trái cây đã được lột vỏ, kho tàng được mở nắp.

Ðang đói thấy được trái cây đã là mừng, nhưng chưa ăn được. Muốn ăn phải lột vỏ. Vỏ ở đây chỉ sự bám víu vào 3 trạng thái an lạc cho rằng chúng thực có. Khi vỏ được lột, thì thực chất bên trong trái cây mới hoàn toàn hiển lộ, tức thực tánh rỗng lặng (vide) của tâm, thường được tạm khái niệm hóa bằng sự an lạc, sáng suốtvô niệm, tuy rỗng chất nhưng vẫn khởi diệt từng sát na.

Ðến đây ta đã bước vào con đường thứ ba (kiến tánh), còn được gọi là trung đạo bất nhị. Tuy nhiên nếu chưa hoàn toàn dứt bỏ thói quen hay khái niệm (đóng khung) tánh Không, hoặc chỉ thấy vài lần bổn tánh thì ta mới ở trình độ sơ cấp. Sau khi thanh lọc, tâm trở nên trong suốt, không còn quán chiếu một cách khái niệm nữa, đây là trình độ trung cấp. Khi trạng thái này trở nên vững chắc, không còn khái niệm về tâm và vật thì ta đạt được "Không kiến" thấy tất cả các pháp đều rỗng lặng. Chặt đứt mọi phân biệt cân nhắc về Không tánh của các pháp bên ngoài lẫn bên trong, đây là trình độ thượng cấp. Trong thời gian này, mọi cảnh vật đều ảnh hiện như ảo ảnh, dương diệm (mirage). Trên con đường (thứ 3) kiến tánh này, ta chứng ngộ được thực tánh của Bồ Ðề Tâm và gột sạch 82 kiến hoặc; không còn tái sinh trong 3 cõi, trừ khi bởi nguyện lực (muốn trở lại hóa độ chúng sanh). Tới đây là hoàn thành con đường kiến tánh hay Sơ Ðịa của Bồ Tát, "Hoan Hỷ Ðịa". Tiếp tục tu tập, ta tiến đến giai đoạn "Ðộc vị" (một vị duy nhất).

bước đầu giai đoạn này, ta vẫn còn gặp vài khó khăn để trụ trong "bây giờ và ở đây". Ðến khi những khó khăn này được vượt qua thì dù đã hay chưa thoát khỏi sự chi phối của ý niệm hiện khởi [3], dù các pháp có hay không có, chỉ cần nhớ và nhận lại tánh của (trạng thái) "bây giờ và ở đây". Thấu hiểu được thực tánh các pháp, ta sẽ thấy tất cả đều cùng một vị (rỗng lặng).

Trên đây là trình độ sơ cấp của "Ðộc vị", kinh nghiệm độc vị giữa cảnh vật và Không tánh chưa hoàn toàn, vẫn còn một chút dính mắc vọng tưởng.

Vọng tưởng là: cho "bây giờ và ở đây" là một pháp.

Khi vọng tưởng này được thanh lọc, tánh của pháp đều tan hoà thành một vị duy nhất, luân hồigiải thoát, sinh tửNiết Bàn cũng vậy. Ðây là trình độ trung cấp của "Ðộc vị". Tiếp theo, cái vị duy nhất này luôn luôn ảnh hiện xuyên qua mọi vật, đây là trình độ thượng cấp của "Ðộc vị".

Ðến đây ta đã chứng ngộ hoàn toàn sự hiện khởi không thực của các pháp. Con đường này bắt đầu từ Nhị Ðịa cho đến Thất Ðịa (theo vài luận sư thì nó bao gồm cả Bát Ðịa), thuộc con đường Thiền Quán.

Trong hệ thống của Ðại Thủ Ấn, có nhiều cách phân chia 12 phép Du Già. Theo tài liệu, bút tích của Kontrul Rinpoché đệ III, cách định nghĩa có vẻ đơn giản hơn:

Trong giai đoạn tập trung tâm ý của Thiền Ðịnh, ở sơ cấp, 3 trạng thái an lạc xuất hiện lần lượt, lúc không lúc có. Ở trung cấp, 3 trạng thái này xuất hiện tự nhiên và ở thượng cấp thì chúng tan hòa vào Thanh Quang, ngay cả trong giấc ngủ.

Trong giai đoạn sơ cấp của Kiến Tánh, ta thấy được tâm không sanh, không diệt, không trụ. Ở trung cấp, ta không còn bám víu vào tánh Không cùng cảnh vật. Ở thượng cấp, ta hoàn toàn dứt lìa khái niệm phân biệt về các pháp hiện hữu.

Trong giai đoạn Ðộc vị, ở sơ cấp những hiện tượng (trước đây được xem như tự hữu) đều tan hòa vào tánh Không (rỗng lặng). Ở trung cấp, tâm và cảnh tựa như nước hòa với nước. Ở thượng cấp, ta thoáng thấy được sự hiện khởi của ngũ trí [4] (xuất phát từ Ðộc vị).

Những phân chia, định nghĩa ở trên không nên được xem là chống trái, vì nó được thiết lập từ những kinh nghiệm thiền tập cá nhân của chư Tổ.

Trước đây ngoài thời gian thiền tập, trong tâm vẫn còn lưu lại vài vết dính mắc vào tánh Không. Nhưng nay, trạng thái trong lúc thiền tập và ngoài giờ thiền tập vẫn như như không khác, tất cả đều được bao trùm trong một khối rỗng lặng, thanh tịnh, trong đó không còn gì để chứng đạt cũng không còn ai chứng đắc, không còn một chút khác biệt giữa xao lãng hay không xao lãng. Hoàn toàn thoát ly khỏi mọi đối đãi nhị nguyên giữa năng quán và sở quán, đây là giai đoạn sơ cấp của Không Thiền, hay Bát Ðịa Bồ Tát.

Ở mức này, có thể lâu lâu trong giấc ngủ, vài dấu vết vi tế dính mắc (năng, sở) vẫn còn hiện khởi. Khi những dấu vết trên được tẩy sạch và các pháp hiển hiện như như trong trạng thái đại định của Căn Bản Trí [5], đó là giai đoạn trung cấp của Không Thiền, hay Cửu Ðịa của Thập Ðịa Bồ Tát.

Tiếp theo, khi lưỡi kiếm của Phân Biệt TríCăn Bản Trí vung lên chặt đứt tận gốc những lậu hoặc tột cùng vi tế (nguyên nhân của vô minh) thì Mẫu Quang, toàn khối thanh tịnh rỗng lặng và Tử Quang, trí huệ nguyên thủy trong như gương [6], tương hòa nhập một. Ðây là sự toàn giác của một đức Phật, còn gọi là thượng cấp của Không Thiền hay Phật quả.

Tánh thanh tịnh tự nhiên của trạng thái nguyên thủy, kết quả của sự hợp nhất (giữa toàn khối rỗng lặng và Ðại Viên Cảnh Trí) chính là Pháp thân (Dharmakaya) mà ta đã làm hiển lộ trên hành trình từ Bát Ðịa đến Phật quả.

Thân của Phật có thể được nhìn duới 2 khía cạnh: Pháp thânSắc thân [7]. Pháp thân là kết quả của sự toàn thắng phiền não vô minh, tự tánhcụ túc. Sắc thân là kết quả của sự thành tựu tất cả hạnh lànhxuất phát từ Bồ Ðề Tâm (Bodhicitta) để hóa độ chúng sinh. Pháp thân bất sinh, bất diệt là tánh thường hằng bất biến, thanh tịnh của tâm và mọi hiện tượng.

Tánh thanh tịnh của những ý niệm chính là Báo thân (Sambhogakaya) mà ta đã làm hiển lộ.

Có nhiều định nghĩa về Báo thân, nhưng theo kinh tạng thì Báo thân có 5 đặc tính sau:

Về 1) sắc tướng: luôn luôn đầy đủ 112 dấu hiệu chính [8] và phụ của một đức Phật; 2) giáo lý: giảng dạy Ðại Thủ Ấn; 3) đệ tử: gồm chư Ðại Bồ Tát; 4) địa vức: chỉ xuất hiện ở các cõi Tịnh Ðộ; 5) thời gian: trụ cho đến tận cùng của luân hồi.

Ðại Bồ Tát là những người, nuôi dưỡngthúc đẩy bởi Bồ Ðề Tâm, có được sự chứng ngộ thanh tịnh, không khái niệm về Không tánh. Do đó cõi nước, địa phương của các ngài trở thành tịnh độ, cảnh giới của chư Phật. Ngoài chư Ðại Bồ Tát, không có chúng sinh nào khác có thể trực nhận được tánh thanh tịnh của ý niệm.

Tánh thanh tịnh của cảnh vật chính là Hóa thân (Nirmanakaya) mà ta đã làm hiển lộ.

Nếu mặt đất toàn bằng lưu ly mà không được lau chùi, bóng của vua Trời Ðế Thích cũng không ảnh hiện được. Tương tựa như vậy, nếu tâm của chúng sanh không trong sạch, dù đức Phậthiện ra trước mặt, họ cũng không nhìn thấy. Ðối với chúng sanh căn tánh thông thường, Hóa thân Phật xuất hiện như một hiện tượng bị chi phối bởi luật nhân duyên và có thể sắp xếp thành 3 hạng. Hóa thân thượng, như Thích Ca Mâu Ni Phật, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thực hiện 12 việc: xuống từ cung trời Ðấu Suất (Tushita), sinh trong hoàng tộc, tinh thông võ nghệ, xuất gia, tu khổ hạnh, giác ngộ dưới cây Bồ Ðề, chuyển pháp luân, v.v... Nếu không đầy đủ phước đứctâm thanh tịnh thì ta sẽ chỉ nhìn thấy nơi Thích Ca Mâu Ni Phật, một người to lớn với đôi tai dài mà thôi. Nếu đầy đủ tâm thanh tịnh thì vị Thầy (Lama) cũng chẳng khác chi đức Phật. Hóa thân trung thường xuất hiện dưới hình thức nghệ sĩ, bác sĩ, nhạc sĩ, v.v... Hóa thân hạ xuất hiện dưới hình thức thú vật như voi, khỉ, chim, v.v... để hóa độ chúng sanh.

Tất cả hạnh lành phát xuất từ tam thân Phật để hóa độ chúng sanh, vượt ngoài sức tưởng tượng của phàm nhân. Chúng sanh vô biên thì sự hóa độ cũng vô cùng như hư không, cho đến ngày không còn một ai trong luân hồi nữa.

Trên đây là những lợi ích của các pháp dự bị tu tập và của tất cả tiến trình tu tập cho tới mức Không Thiền.

Chú thích:
[1] Ngũ đạo: 5 con đường. Mật giáo thường chia tiến trình tu tập thành 5 giai đoạn: Tích Tụ (accumulation), Chuẩn Bị (préparation), Kiến Tánh (vision), Thiền Quán (méditation), Không Thiền (non-méditation).

[2] Non-méditation: dịch là Không Thiền. Trong tất cả các thời, đi, đứng, nằm, ngồi, hành động tạo tác, tâm đều an trú trong Thiền Ðịnh, không còn hạn cuộc vào các thời khóa công phu thiền tọa. Trong Thiền tông gọi là không thiền mà thiền, thiền mà không thiền

[3] Tuy thấy Tánh nhưng chưa hoàn toàn thoát khỏi sự chi phối của những ý niệm hiện khởi.

[4] Tây Tạng thường nói đến Ngũ Trí thay vì Tứ Trí. Theo Shamar Rinpoché trong quyển "Les deux visages de l’esprit", Ngũ Trí gồm: Ðại Viên Cảnh Trí (sagesse semblable au miroir), Bình Ðẳng Tánh Trí (sagesse de l’identité), Diệu Quang Sát Trí (sagesse de la simultanéité), Thành Sở Tác Trí (sagesse tout accomplissant), và Pháp Giới Trí (sagesse du Dharmadhatu).

[5] Kinh sách Tây Tạng thường phân chia 2 loại trí huệ: 1) Phân Biệt Trí, connaissance discriminante (shérab) là trí huệ của Không tánh, thấy rõ đâu là chân đế, tục đế. Còn gọi là trí Bát Nhã. 2) Căn Bản Trí (yéshé) là trí huệ của bất nhị tánh, dung thông nhị đế.

[6] Sagesse primordiale semblable au miroir

[7]Sắc thân bao gồm Báo thânHóa thân.

[8] 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14435)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14157)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15323)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13888)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13939)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37356)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14847)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13800)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13846)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12696)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11777)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22553)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12516)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12576)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13070)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13120)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17280)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33272)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14844)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11049)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12465)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11967)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11939)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13148)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51282)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12392)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6620)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30437)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13131)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13337)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30706)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19385)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12488)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11860)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14772)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13209)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13204)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30708)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12046)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11842)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12732)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11792)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11755)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10438)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11566)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9648)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9672)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10007)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35426)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10106)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9671)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27822)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15510)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9868)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13689)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9853)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9705)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18345)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12048)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9579)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9700)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8926)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8425)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11485)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31760)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12340)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13334)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8836)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9453)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11952)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9238)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9082)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9676)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29378)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9088)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9115)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33278)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8438)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30639)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37147)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32290)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9939)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27118)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8456)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19249)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13019)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant