Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Nước và Sóng

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11317)
Chương 7: Nước và Sóng

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN II: LUYỆN TÂM.


Chương 7: Nước và Sóng

Myongsong Sunim

 

Unmunsa là một tu viện lớn tại Hàn quốc, có khoảng 300 ni. Sự thành công của viện nhờ vào Ni trưởng và cũng là vị giảng sư chánh là Myongsong Sunim, một trong những người giảng pháp lỗi lạc nhất của Hàn quốc, được rất nhiều người kính trọng. Tu viện Unmunsa càng ngày càng lớn mạnh, có thêm nhiều phòng ốc; học viên thì hài lòng với không gian hoà hợp yên tĩnh. Ni sư Myongsong khoảng 60 tuổi, nhưng nhìn bà rất trẻ so với tuổi. Bà nhanh nhẹn nhưng cũng trầm tĩnh, nghiêm khắcthân thiện, cân bằng, mực thước, luôn lo cho phúc lạc của các ni sinh. Các ni sinh có cảm giác rằng Ni trưởng đối với họ rất tốt vì bà biết cách chăm sóc cho cây cỏ. Muốn trồng phong lan và cây cối đòi hỏi sự kiên nhẫn, vì mỗi thứ cây cần được chăm sóc khác nhau. Cũng vậy, dường như Ni trưởng biết phải ứng phó như thế nào với nhiều ni sinh khác nhau.

GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT LÀ GÌ?

 Chúng ta cần biết ý nghĩa thật sự về chữ Phật trước khi ta có thể thiền hay tụng niệm. Nếu thực hành một cách mù quáng, chúng ta có thể đi sai mục đích. Chúng ta cần phải tìm hiểu về giáo lý của đức Phật trước khi thắp hương, niệm Phật. Chúng ta phải biết kinh trước khi có thể tụng. Đó là lý do tại sao tôi học kinh điển.

Trước tiên, bạn phải có tâm chân thành khi học kinh. Ban đầu, khi đức Phật đi tu, Ngài cũng có lý do. Tại sao đức Phật lại đi tu? Cũng giống như, đi chợ để mua một món hàng nhất định nào đó, hoàn toàn khác với việc đi chợ chỉ vì theo một người bạn, hoặc đi mà không có mục đích gì cả.

Từ nhỏ, tôi đã đọc rất nhiều sách về tôn giáo: Phật giáo, Khổng giáo, Thiên Chúa giáo, kể cả sách của Socrates. Tôi muốn trở thành một đại bác học. Nhưng tôi đọc sách Phật là phần lớn và muốn đi theo con đường nầy. Nhìn người khác, tôi thường tự hỏi cuộc sống của họ có ý nghĩa gì, khi dường như họ sống một cuộc sống vô vị. Tôi quyết định xuất gia năm 23 tuổi.

TÂM BAN ĐẦU

Khi bắt đầu tu tập, ta nên tự hỏi: Động lực nào thúc đẩy ta? Mục đích của ta là gì? Chúng ta cần có một đường hướng căn bản vì thế ta nên bắt đầu học kinh Chobalshim (Tâm ban đầu).

Tâm rất quan trọng. Ta cần tạo ra một tâm thức như thế nào? Tâm giống cái gì? Cái mà ta gọi là tâm không hình dáng, không mùi vị. Ta không thể thấy tâm bằng mắt hoặc nghe bằng tai; vậy tâm là gì?

Điều quan trọng là tiếp tục không gián đoạn với động cơ ban đầu của ta. Tâm ban đầu, khoảng giữa và cuối đều phải giống nhau. Nếu tâm ban đầu thay đổi, thì bạn có thể có những hành động bất thiện hay là không chính đáng.

Tâm ban đầu cần được chuyển tiếp cho tâm theo sau; chúng là một. Trong kinh Chobalshim có nói: ‘Với tâm ban đầu hành giả sẽ đạt được giác ngộ’. Tôi thường giảng về tâm nhất nguyên và làm thế nào để tâm ấy không hai.

SÓNG VÀ NƯỚC

Nếu bạn nghĩ thiền và học kinh điển là đối chọi nhau, thì bạn rất sai lầm. Hoàn toàn không phải vậy. Nếu tâm Phật là thiền thì lời Phật là giáo pháp. Giáo pháp của Phật không hiện hữu ngoài tâm Phật.

Giống như nước và sóng không khác nhau. Nếu nước chuyển động thì là có sóng, khi lắng dịu thì vẫn là nước. Sóng thì chuyển động và nước thì yên lắng, hai thứ không khác nhau. Cũng như vậy thiền và giáo pháp không khác.

Trong đời sống hàng ngày, không có gì không phải là thiền. Khi chúng ta biết ngồi quay mặt vào vách quán sát, ‘Cái gì là tâm?’, thì mọi thứ trong cuộc sống của chúng ta trở thành thiền. Từ lúc sáng thức dậy cho đến lúc nằm xuống ban đêm, chúng ta quán: ‘Cái gì đang nằm ở đây?’ Nếu suy tư sâu lắng ta thấy cái đang nằm ở đây có thể ví như một xác chết còn động đậy. Đây là một hình thức tu tập.

Giáo lý của Phật chỉ là sự diễn đạt của tâm Phật, qua văn tựngôn ngữ. Nhiều người không biết đó là một chứ không phải hai. Một thiền sinh có thể nói giáo lý là xa vời. Ngược lại kẻ chấp vào kinh điển có thể phỉ báng các thiền giả, cho rằng họ là những kẻ ngu si, nhưng những khái niệm này đều sai lầm.

ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

Dầu lạy Phật hay là nhổ cỏ, chúng ta cũng phải làm những việc đó với tâm bình đẳng. Nếu chúng ta lạy Phật vì Phật ngồi trên cao, đó là tôn thờ hình tượng. Nếu lạy Phật, khi chúng ta nghĩ Phật ở ngoài chúng ta, đấy cũng là tôn thờ hình tượng. Nếu ta nghĩ tâm hiện tại của ta là Phật, chúng ta đảnh lễ chân tâm của mình với lòng thành kính, cố gắng không để tâm dẫn đến cống cao ngã mạn. Đó mới thật là ý nghĩa của sự đảnh lễ.

Trong cuộc sống hàng ngày, khi làm những nhiệm vụ lớn nhất hay nhỏ nhất, nếu chúng ta sống chân thật, kiểm soát việc mình làm, đấy chính là ý nghĩa của chữ Phật. Khi nhổ cỏ, hoặc quét sân, thưa hỏi người cao tuổi hoặc làm bất cứ chuyện gì, nếu ta làm những việc này một cách thành tâm thật lòng, thì đây là thiền.

Nếu chúng ta tinh tấn hành thiền nhưng rồi nổi giận hoặc nổi tham, thì còn tệ hơn chưa từng thực tập gì hết. Mục đích của thiền là sửa đổi các tư tưởng sân hận, si mê hay tham đắm. Chúng ta thiền là để trở về với tâm trong sạch, chân thật. Nếu chúng ta sống một cuộc sống hoang đàng, không lành mạnh, thì đó không phải là học tu hay hành thiền.

Tôi thích nói về pháp một cách cởi mở, giản đơn. Tôi dạy người cư sĩ biết sống lành mạnh trong cuộc sống hàng ngày. Như sen vươn lên từ vũng bùn nhơ, vẫn nở hoa tinh khiết, đẹp đẽ, người cư sĩ sống ở thế gian, vẫn có thể nở hoa như sen vậy. Nếu họ vun trồng một cách sống tốt đẹp với nhau, đó là họ đã thực hiện ý hướng của đức Phật.

NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA

Ngay trước khi dạy bảo ai điều gì đó, chúng ta đã phải khiêm nhường. Nếu khuyên ai nên tạo công đức, chúng ta cần nhún nhường khi nói điều nầy. Trước hết chúng ta cần xét lại việc tạo công đức của chính bản thân. Trước khi bảo ai đừng nóng giận, tôi phải xét lại bản thân xem mình có khả năng chịu đựng, nhẫn nại mà không trở nên giận dữ.

Khi muốn nhắc nhở ai điều gì đó, ta không cần lớn tiếng. Trước tiên, ta phải nhìn lại mình; có thế ta mới có tự tin để dạy dỗ người khác. Chúng ta phải làm mọi việc với lòng tự tin. Nhưng thật khó tự tin, đúng không nào? Xét hành động của người thì dễ hơn của mình.

Nguồn cảm hứng phải phát khởi từ trong lòng. Nếu ta hy vọng tìm được điều đó từ bên ngoài, như thể nó rơi từ trên trời xuống, thì thật là sai lầm. Sự dũng mãnh cũng phải bắt nguồn từ bên trong, từ lòng tự tin của chính mình. Giống như nước từ trong nguồn chảy ra. Đâu có nơi nào khác mà ta có thể tìm được?

Riêng cá nhân tôi, sự cảm hứng không ích lợi gì. Tất cả các công trình đã được hoàn thành ở đây không phải do tôi làm, mà do từ tất cả năng lượng của nhiều người khác hợp lại. Không phải chỉ có sức mạnh của tôi mà chúng được hoàn thành. Vì nhiều vị ni quyết hợp sức cùng làm, tu viện Unmunsa mới được như thế đó. Công trình nầy không phải thành công nhờ tôi có sức mạnh phi thường gì. Mọi thành tựu đều do sức mạnh của từng ni sinh đang học tập tại đây; góp chung lại, nó được kết tinh thành.

Khi bạn chơi trò kéo dây, một nhóm người kéo dây, và vì mọi người cùng chung sức kéo, sợi dây chuyển động. Người đứng phía trước, hay bất cứ ai, không thể nói, ‘Tôi là người làm cho sợi dây chuyển động’. Không phải một người, mà là mọi người cùng nhau hoàn thành điều gì đó. 

Người ta không thể truyền đạt ý của mình cho người khác. Ai đó có thể hỏi tôi: ‘Tại sao bà lại sống giữa núi vậy?’ Tôi có thể xử dụng câu trả lời của một vị thiền sư cho câu hỏi nầy. ‘Trên đỉnh núi, mây đến rồi đi’. Câu nầy rất hợp với tôi. Hạnh phúc, niềm vui của một người không thể giải thích được. Nếu tôi uống nước, thì chỉ có tôi mới biết được nước lạnh hay nóng, và nóng hay lạnh như thế nào. Vì lý do nầy, tôi không thể diển đạt được niềm cảm xúc mà tôi, một người nữ tu, đã trải qua.

NGUỒN GỐC CỦA GIỚI LUẬT

Các vị tăng ni cần phải chú tâm, đặt nặng vấn đề đạo đức hơn người tại gia. Xét kỹ, ta thấy, đối với các vị tỳ kheo có tất cả 250 giới, tỳ kheo ni có 338 giới, cư sĩ thì có năm hay 10 giới và cho sa di (sramanera) có 10 giới.

Tôi đã giảng nhiều về các giới luật của tỳ kheo ni. Theo tôi, nhìn lại nguồn gốc của giới luật, tôi cảm thấy không cần thiết phải tuân theo giới luật một cách quá chặt chẻ. Nguồn gốc của giới luật là để ‘bỏ điều ác, làm điều lành’. Vậy là đủ rồi. Nếu chúng ta luôn giữ nguồn gốc của giới luật, nó sẽ trở thánh bản tánh tự nhiên; tự động ta sẽ giữ các giới luật mà không cần được nhắc nhở: ‘Hãy làm việc nầy, đừng làm việc đó!’ Đừng làm việc ác và xem điều nầy như nền tảng để làm việc tốt! Đó chính là lời dạy của Đức Phật

THIỀN ĐỊNHTRÍ TUỆ

Tâm chúng ta giống như sóng biển, lúc nào cũng nhấp nhô. Thiền giúp cho tâm giao động trở nên yên tịnh, để có thể tìm giữa bao thứ trong tâm ta cái ý tưởng vững chải, không xao động. Có lời dạy rằng: ‘Đừng chấp vào những cái bên ngoài mà bạn có thế thấy, có thể nghe. Hãy buông bỏ ngay lập tức.’

Trạng tháinội tâm tôi không bám víu, không nôn nao, không bận rộn, là trạng thái khi tâm tôi đã lắng dịu hoàn toàn, cũng như nước đang lắng đọng. Biển tâm, dòng nước sâu thẫm của tâm, khi đã lắng xuống một cách êm đềm, thì đấy là định.

Dầu bận rộn thế nào, bạn cũng cần phải cẩn trọng hơn, chú tâm hơn và điềm tĩnh hơn. Để giúp mình bình tĩnh hơn, hãy tự hỏi: ‘Tôi phải giải quyết việc nầy như thế nào?’ Nếu bạn có chánh định, thì dầu công việc của bạn có rắc rối, khó khăn thế nào, bạn cũng không bị áp lực, kiệt sức, thật ra bạn còn điềm tĩnh hơn. Nếu bạn có khả năng của chánh định, thì bạn có đủ sức mạnh để đối phó với mọi hoàn cảnh. Mắt của thiền giả có thể trụ vào một nơi cố định, không liếc ngang dọc mọi nơi. Đó chính là nhờ sự chú tâm.

Nếu dòng nước tâm lắng đọng êm đềm, thì tâm sẽ trở nên trong hơn và chói sáng sau mọi phản chiếu. Nhờ có định, mà trí tuệ phát sinh một cách tự nhiên, rõ ràng. Trí tuệ của Đức Phật không thể có được giống như cách chúng ta tạo ra của cải vật chất. Khi tâm thức lắng đọng, lập tức ánh sáng trí tuệ chói sáng.

Thiền sư Bojo có nói: ‘Không có điều ác trong tâm thức, đó là giới luật, không có xao động trong tâm, đó là định, không có si mê trong tâm, đó là trí tuệ.’

ĐÔI CÁNH CHIM

Giữa tăng và ni, không có sự khác biệt. Cả hai đều là đệ tử Phật. Tăng và Ni như đôi cánh của một con chim. Sứ mệnh của chúng ta trong đờitruyền bá lời dạy của Đức Phật.

TU VIỆN UNMUNSA

Ở Unmunsa, có rất nhiều ban, khoa. Có khoa giáo dục nhằm mục đích truyền bá Phật pháp. Có ban văn hóa phát hành tờ tin. Ban hoạt động xã hội tổ chức các gian hàng bán lấy tiền gửi đến các trại phong, nhà dưỡng lão và cô nhi viện. Các vị ni thăm viếng những nơi mà con người đang đau khổ như một hiện thân của lòng từ bi của đức Phật.

Công việc của chúng tôi là giảng dạy ý nghĩa của Đức Phật. Đây là các nguyên tắc chỉ đạo của trường đại học: chúng tôi phải phát đại nguyện bằng cách vun trồng các ý định của mình. Phải tinh tấn và dốc cả tâm trí vào tất cả những việc ta làm, không được dễ duôi. Không được trở lại với các thói quen cũ, và phải luôn tinh tấn. Chúng ta phải truyền bá những lời Phật dạy, vì Đức Phật bảo bánh xe pháp phải quay không ngừng.

Khi tôi mới đến đây, có chừng khoảng 70 vị ni. Trong 22 năm, nhiều việc đã đổi thay và số ni tăng lên rất nhiều. Hiện tại có khoảng 230 ni sinh. Nếu cộng luôn tất cả những người làm việc ở đây, con số có thể lên đến 257 người. Trong tương lai, tôi mong có những vị ni xuất chúng, có kiến thức cao hơn tôi sẽ xuất hiện và phát triển tu viện nầy hơn nữa.

Tôi bảo với tất cả ni sinh rằng họ phải trở nên những con người giác ngộ. Bằng những thành quả của chính mình, họ phải trở nên các nhà tư vấn thông thái. Đi đến đâu họ cũng không phải quỳ lụy, khúm núm. Tất cả chúng ta phải trở thành những phụ nữ xuất sắc trên con đường Đạo.

SỐNG HOÀ HỢP

Ban đầu, tôi không tha thiết muốn được trở thành Ni trưởng. Ý tôi định là nghiên cứu và giảng dạy kinh điển ở thủ đô. Tuy nhiên, ni chúngtu viện Unmunsa nhất quyết muốn tôi làm giảng sư cho họ và sau đó yêu cầu tôi làm Ni trưởng. Điều mà tôi thích khi làm Ni trưởng, là tôi có trọn quyền để làm cho các ni sinh thêm thoải mái. Nếu tôi chỉ là giảng sư, tôi phải xin phép Ni trưởng để mua bàn ghế, màn cửa, máy photocopy, vân vân, và có thể bị cấm. Nhưng vì tôi là Ni trưởng, tôi có thể cung cấp mọi thứ cần dùng cho các ni sinh.

Sống hoà hợpmục đích của ni chúng nầy. Khi các ni có sự bất đồng ý kiến, họ cố gắng tìm hiểu quan điểm của người khác. Nếu nhìn vào gương, tôi thấy khuôn mặt của mình phản chiếu trong đó; sự phản chiếu đó không tốt hơn cũng không xấu hơn khuôn mặt của tôi, nó chỉ phản chiếu sự vật như nó thật là. Chúng ta không nên ôm thù hận đối với kẻ khác. Mọi lỗi lầm cần được xem xét lại bằng cách nhìn lại mình, và chúng ta phải kiên nhẫn, nhún nhường đối với nhau.

Chúng tôi chủ trương sống với lòng khiêm cung. Vì thế mặc dù có 250 ni sống chung với nhau, các vụ ấu đả hay tranh cãi không xảy ra thường xuyên. Dù sao, họ cũng phải học hành chăm chỉ, giữ gìn khuôn viên sạch sẽ, trồng hoa và rau quả, vì thế họ rất bận rộn, không có thời gian để bất hoà.

ĐẠI ÁIĐẠI BI

Chữ từ bi trong tiếng Hàn được kết hợp một cách rất ý nghĩa, bao gồm từ ja, là ‘thương yêu’, và bi, nghĩa là ‘buồn, thương xót’. Chữ ‘từ bi’ nấy, cũng đi ghép với chữ ‘vĩ đại’. Chúng ta luôn nói về lòng đại từ bi.

Trong cuộc sống thế gian, người ta thương không trọn vẹn. Họ nghĩ, ‘Tôi mong mọi việc suông sẻ tốt đẹp cho con trai hay con gái tôi.’ Họ làm điều nầy kể cả khi cầu nguyện. Đối với sự từ bi nầy, bạn không thể thêm vào từ ‘đại’ phía trước.

Đại bi nghĩa là khi ai đó gặp nhiều đau khổ, chúng ta phải tốn nhiều công sức để giúp họ ra khỏi đó. Cũng có nghĩa là khi chúng sanh buồn, ta cũng buồn với họ. Khi họ khóc, ta cũng khóc. Đại ái là khi chúng sanh vui, ta cũng vui với họ. Chia sẻ buồn vui cùng nhau, đó mới là đại từ bi. Đại ái nghĩa là chúng ta ban tặng hạnh phúc lớn lao; đại bi nghĩa là chúng ta giúp người thoát khỏi khổ đau.

Ý nghĩa của từ bi thật tuyệt vời. Gandhi đã nói ông học được tình thương yêu đồng loại từ Thiên chúa giáo, nhưng ông học được tình thương yêu tất cả mọi loài chúng sanh nơi Phật giáoMọi vật đều được tôn trọng, kể cả con muỗi. Thật là một ý tưởng tuyệt vời, thương yêu tất cả chúng sanh một cách bình đẳng. Vì thế, để không vật gì bị giết hại, chúng tôi không ăn thịt. Nếu tôi lo cho sự sống của mình, thì tôi cũng phải lo cho mọi sự sống khác, do đó tôi không thể giết hại bất cứ một chúng sinh nào. Như thế lòng từ bi sẽ mãi tuôn tràn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15581)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14055)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12979)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55115)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9173)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14448)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14166)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14208)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36323)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18168)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19159)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20292)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17641)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14695)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46177)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35945)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21052)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21603)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23402)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19492)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20195)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18373)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19534)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33421)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34485)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54527)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37730)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21138)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17889)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27447)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16328)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17924)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14476)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21985)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14372)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15403)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14998)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12700)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12517)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13198)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15422)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12871)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21655)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11284)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22734)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15087)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14952)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46192)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22460)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12622)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18908)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14740)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43869)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56975)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13843)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13660)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29016)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33322)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38390)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15406)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40396)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant