Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Du Tâm An Lạc Đạo

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 27408)
Du Tâm An Lạc Đạo

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

LỜI TỰA

Du Tâm An Lạc Đạo là bộ luận do sư Nguyên Hiểu người nước Tân-la soạn, được xếp vào Đại Chính Tạng, t. 47 và Tịnh Độ Toàn Thư, q. 6. Sách này xưa nay rất cần thiết cho các hành giả tu Tịnh độ[1]”. Thế nhưng, trong các đạo tràng Tịnh nghiệp hiện nay chưa có bản dịch sang Việt văn để hành giả tu Tịnh nghiệp tham cứu. Mặc dù hiện nay kinh sách nói về pháp môn Niệm Phật rất nhiều, song vẫn có không ít người tuy niệm Phật, nhưng tâm vẫn còn những nghi ngờ về vấn đề vãng sinh, nên dẫn đến việc tu tập bị chướng ngại và lui sụt. Khi đón nhận bản Hán văn từ tay thầy Chủ nhiệm, chúng tôi cảm thấy vừa mừng vừa lo. Mừng vì được thầy tin tưởng giao phó trách nhiệm; còn lo là vì nghĩ rằng tác phẩm càng ngắn thì càng khó dịch. Hơn nữa, tác giả lại là một vị Tăng được phong là Quốc sư nước Tân-la (Triều Tiên), sống vào đầu thế kỷ V. Văn của Ngài là loại văn bác học cổ xưa, rất cô đọng, mà bản thân người dịch là hàng hậu học cách xa 15 thế kỷ, vốn Phật học nông cạn, trình độ Hán ngữ còn non kém, phương pháp tra cứu chưa vững vàng... 

Thiết nghĩ, góp hương sắc vào vườn hoa Tâm, giúp hành giả phát khởi niềm tin; gieo mầm sen trên mảnh đất Huệ, mong người tu tăng thêm sức định, cũng là việc nên làm! Do đó, dù còn nông cạn cả về học lẫn tu, nhưng chúng tôi cũng gắng vận dụng hết khả năng, phát tâm chuyển dịch tác phẩm này sang văn Việt, nguyện cho hành giả tu Tịnh nghiệp Văn-Tư- Tu càng ngày càng tăng trưởng, Tín-Hạnh-Nguyện mỗi lúc một vững bền.

Hoàn thành dịch phẩm này, người dịch xin thành tâm kính lễ tri ân:

- Song thân phụ mẫu đã cho con đầy đủ vóc hài.

- Nhị vị Bổn sư thế độ đã tác thành cho con pháp thân huệ mạng.

- Chư vị Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, chư vị Giáo thọ sư, Giáo sư đã dày công giáo dưỡng.

- Thượng tọa Trụ trìTăng chúng chùa Bửu Đà đã hoan hỷ cung cấp tứ sự, tạo điều kiện thuận lợi cho con suốtù thời gian tu học cũng như công việc phiên dịch này.

- Chư vị Ni trưởng, Ni sưNi chúng các chùa Phước Hòa, Từ Nghiêm đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm Pháp Âm được yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.

- Xin chân thành tri ân các vị ân nhân xa gần, những người âm thầm ủng hộ và luôn luôn sống với niềm tin vững chắc vào Tam Bảo.

Vì đây là dịch phẩm đầu tay, nên không sao tránh khỏi nhiều lỗi lầm, sai sót. Người dịch kính mong các bậc thạc đức cao minh, pháp lữ đồng tu và bạn đọc xa gần rộng lòng thứ lỗi và chỉ giáo cho. Việc dịch thuật này có được bao nhiêu công đức, xin thành kính dâng lên cúng dường mười phương chư Phật và nguyện hồi hướng cho pháp giới chúng sinh cùng chuyên tu Tịnh nghiệp, cùng phát tâm Bồ-đề, cùng quyết về bến Giác.

Ngày đầu Hạ - Bính Tuất, PL: 2550

Thích Giác Chinh

 

SƠ LƯỢC TÁC GIẢ

Nguyên Hiểu (617 - ?) là một vị Tăng thuộc tông Hoa Nghiêm, người nước Tân-la, họ Tiết. Thuở nhỏ tên là Thệ Tràng. Năm 29 tuổi, Sư xuất gia ở chùa Hoàng Long. Về sau, Sư đi du hóa khắp nơi, chuyên nghiên cứu giáo nghĩa. Vì văn chương lưu loát, biện luận thông suốt, cho nên Sư được người đương thời tôn xưng là Vạn Nhân Địch.

Vào năm thứ tư, triều Chân Đức Nữ Vương, nước Tân-la, Sư cùng với ngài Nghĩa Tương vượt biển sang Trung Quốc để cầu pháp, nhưng giữa đường, Sư chợt ngộ ra ý nghĩa câu “Vạn pháp không ngoài tâm, cần gì phải tìm cầu bên ngoài”, Sư bèn một mình khăn gói quay trở về.

Sư từng sáng tác những bài ca lưu hành trong dân gian, lại thường mang đàn đi vào các thôn xóm, dùng những bài ca, điệu múa làm phương tiện giáo hóa mọi người, khiến cho những kẻ bình dân, trẻ con đều biết đến danh hiệu Phật-đà và niệm Nam-mô.

Về sau, Sư ở chùa Phân Hoàng, biên soạn bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ, nhưng việc chưa hoàn thành thì Sư mất, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Sư được ban tên Thụy, là Hòa Tránh quốc sư.

Sư nói năng và hành động cuồng phóng, thường hòa mình trong trần tục, có khi vào trong quán rượu, rạp hát, có lúc mang theo kiếm vàng gậy sắt, có lúc lại soạn sớ giải Hoa Nghiêm, có lúc khảy đàn nơi đình miếu, có khi lại ngủ qua đêm ngoài cổng làng, hoặc ngồi thiền nơi ven núi bờ sông, mặc ý tùy duyên, ngao du tự tại.

Khi vua nước Tân-la mở đại hội Bách Tòa Nhân Vương Kinh[2], thỉnh các bậc thạc đức khắp nơi. Sư tuy được địa phương tiến cử, nhưng các bậc thạc đức đều không thích tính cách của Sư, nên can gián nhà vua không thâu nạp. Sau đó, phu nhân của vua bị bệnh, chữa trị đủ các thuốc hay mà vẫn không lành. Vua cầu phép mầu khắp nơi, được bộ kinh Kim Cang Tam-muội, nhưng không ai có thể giảng giải, nhà vua bèn ban lệnh cho Sư sớ giải. Sư soạn thành năm quyển, nhưng lại bị kẻ tiểu nhân trộm mất. Do đó, Sư phải soạn lại lược sớ ba quyển, diễn giải tại chùa Hoàng Long suốt ba ngày. Vua quan, Tăng tục đều tụ tập đông đủ để nghe giảng. Nhờ đó, pháp này được lưu hành rộng rãi trong nước, phu nhân của vua nhờ đó cũng được khỏi bệnh mà không cần uống thuốc.

Ngoài bộ sớ giải trên, những trước tác của Sư còn có: Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh Sớ (2 quyển), Vô Lượng Thọ Kinh Tông Yếu, A-di-đà Kinh Sớ, Du Tâm An Lạc Đạo, Di-lặc Thượng Kinh Tông Yếu, Đại Thừa Khởi Tín Luận Sớ, Bát Chu Tam-muội Kinh Lược Ký, Thập Môn Hòa Tránh Luận, Pháp Hoa Tông Yếu, Nhị Chương Nghĩa, Phán Tỷ Lượng Luận. Trong đó, hai bộ Nhị Chương Nghĩa và Phán Tỷ Lượng Luận bị thất lạc rất lâu, mãi đến những năm gần đây mới được hai vị học giả người Nhật BảnHoành Siêu Huệ Nhật và Thần Điền Hỷ Nhất Lang phát hiện.

Tác phẩm Du Tâm An Lạc Đạo được trình bày thành bảy chương:

I. Tôn chỉ lập giáo
II. Xác định nơi chốn của cõi Cực Lạc

III. Những chướng nạnnghi ngờ

IV. Nhân duyên vãng sinh

V. Các phẩm vị vãng sinh

VI. Luận về việc vãng sinh khó hay dễ

VII. Lập các mối nghi để trừ nghi

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 314)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 531)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 516)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 488)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 557)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 348)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 470)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 809)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1162)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1474)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1197)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1116)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2320)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1521)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1796)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2195)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1907)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2620)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4775)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2648)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6342)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3269)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3060)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2913)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3699)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3194)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8114)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2854)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8535)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4418)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8165)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6752)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11236)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22861)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5268)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11793)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11412)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12607)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34657)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32820)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22217)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12539)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11895)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10411)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10901)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11838)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11742)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10963)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10741)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11420)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7210)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6550)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7247)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5739)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6443)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6034)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9399)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5920)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5905)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5649)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant