Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Một quyền năng vô hạn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6632)
02. Một quyền năng vô hạn

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

2

Một quyền năng vô hạn

Đầu năm 1911 The International Order of the Star in the East Tổ chức quốc tế của Vì Sao phương Đông được thành lập, với Krishna là Head người Đứng đầu và Mrs Besant và Leadbeater là người bảo hộ của nó. Mục đích của Order là kéo lại gần nhau những người tin tưởng Thầy Thế giới Sắp đến và giúp đỡ chuẩn bị quan điểm quần chúng để chấp nhận Ngài. George Arundale là thư ký cho Head. Một tờ báo theo quý, Herald of the Star Người đưa tin của Vì Sao, được thành lập và được in tại Adyar.

 Tháng hai năm đó Mrs Besant đưa các cậu viếng Miến điện. Krishna, từ khi thấy ở đó quá nhiều tượng Phật, hình thành một tôn kính về Đức Phật mà cậu không bao giờ mất đi. Khi quay lại Adyar, Leadbeater báo cho Mrs Besant biết ý muốn của Bậc Thầy là các cậu nên đi đến nước Anh. Vì vậy, Mrs Besant khởi hành cùng các cậu đi Bombay vào ngày 22 tháng ba. Ở Benares, trên đường đi, quần áo kiểu Châu âu được mua cho các cậu và những lỗ lớn trong tai, mà đã được xuyên thủng khi các cậu còn nhỏ, được khâu lại thật đau bởi một bác sĩ. (Krishna không bao giờ mất những vết sẹo mờ trong hai tai của cậu.) Họ được tháp tùng bởi Arundale, người đã xin phép nghỉ vài tháng tại Hindu College.

 Ngày 22 tháng tư họ đi tàu từ Bombay. Mrs Besant báo lại Leadbeater, trong lá thư đầu tiên của những lá thư hàng tuần gửi cho ông, rằng các cậu xoay sở trong bộ âu phục rất khéo, mặc dù các cậu nhận thấy đôi giày quá ‘tù hãm’, và Krishna vui vẻ vì Thuyền trưởng đã cho phép cậu xem vài công việc của con tàu, đặc biệt the ‘Marconi apparatus’ bộ máy Marconi.

 Có sự hứng khởi lạ thường giữa những người huyền bí học Anh đến Charing Cross Station vào ngày 5 tháng năm để nghênh đón Mrs Besant và những người được bảo hộ của bà. Số phận vinh quang đang chờ đợi Krishna đã không giữ được bí mật. Trong đám đông là Lady Emily Lutyens mà cuộc đời của bà trong hai mươi năm kế tiếp sẽ quay quanh Krishna. Mrs Besant, cùng các cậu bé, đi tới sống với một người bạn thân nhất ở Anh, Miss Esther Bright, và người mẹ góa chồng của cô tại số 82 Drayton Gardens. Ngày 8 tháng năm một cuộc họp mặt được tổ chức tại Bộ Chỉ huy Huyền bí học ở Bond Street nơi Mrs Besant tuyên bố sự thành lập Tổ chức Vì Sao phương Đông và nói rằng tất cả người nào muốn trở thành hội viên phải đưa danh tính của họ cho George Arundale. Lady Emily là một trong những người đầu tiên làm như thế, và ngay sau đó Mrs Besant yêu cầu Lady trở thành người đại diện quốc gia của Order cho nước Anh. Hai người khác đăng ký, mà đã được cải đạo sang Theosophy bởi Lady Emily, là Miss Mary Dodge và Muriel, Nữ Bá tước De La Warr, người bạn đã sống với Miss trong một ngôi nhà to lớn ở St James’s, Warwick House. Miss Dodge là một người Mỹ đã sống ở Anh được hai mươi năm và hiện nay bị tê liệt bởi bệnh viêm khớp nặng đến độ cô phải dùng một xe lăn. Cô đã thừa hưởng từ người ông của cô, William Earle Dodge, một gia tài có từ mỏ đồng, bất động sản và công ty đường xe lửa. Cô dành riêng một chiếc xe hơi cho Mrs Besant tùy ý sử dụng khi ở Anh.

 Các cậu trai được đưa đi xem tất cả những cảnh đẹp của London, nhưng điều gì các cậu ưa thích nhất là những nhà hát. Các cậu ghét đi bộ vì đôi giày Châu âu của các cậu gây đau đớn lắm. Mrs Besant dắt các cậu đến những nơi khác nhau ở Anh và Scotland nơi bà tổ chức những cuộc họp mặt của Hội Huyền bí học. Lady Emily tháp tùng họ đến Oxford và nhớ lại khi họ dự một bữa tiệc ngoài vườn ở đó vào một ngày tháng năm lạnh buốt – hai cậu trai Ấn độ nhỏ bé run lập cập trông cô độc và lạnh lẽo đến độ bà muốn ôm ấp và chăm sóc các cậu. Lady đưa các cậu cùng hai người con út trong năm người con của bà xem lễ diễn hành đăng quang ngôi Vua của George Đệ ngũ vào ngày 22 tháng sáu.

 Sau đó Mrs Besant tổ chức ba buổi giảng thuyết tại Queen’s Hall ở London về chủ đề ‘Thầy Thế giới Sắp đến’. Sự quan tâm lớn lao đến độ Hall đông nghẹt người và hàng trăm người khác đã phải quay về. Mrs Besant là một diễn giả tuyệt vời, nếu không muốn nói là văn hoa. Tác giả, Enid Bagnold, đã nghe bà diễn thuyết về cùng chủ đề tại The Queen’s Hall năm 1912, kể lại trong tự truyện của cô: ‘Khi bà tiến lên bục giảng bà đang rực sáng. Uy quyền của bà lan tỏa khắp mọi nơi.’

 Vào tháng tám Mrs Besant cùng các cậu trai ở với gia đình Bright tại Esher, Surrey nơi họ có một ngôi nhà nhỏ. Lady Emily viếng thăm họ ở đó nhiều lần và nhớ lại bệnh khó tiêu khủng khiếp mà Krishna đã chịu đựng vì sự ăn uống kiêng khem bị quy định cho cậu bởi Leadbeater, cho rằng do lệnh của Bậc Thầy Kuthumi: ‘Vô số ly sữa phải uống trong một ngày, và cháo lẫn trứng cho bữa sáng. Tôi có thể thấy Krishna lúc này, sau một đêm không ngủ vì đau đớn, đấu tranh để ăn bữa sáng bị quy định dưới đôi mắt nghiêm khắc của Mrs Besant. Tôi đã muốn giựt lấy cái đĩa đựng thức ăn đó khỏi cậu và đưa cậu vào trong nghỉ ngơi. Sự rối loạn tiêu hóa, cùng cơn đau buốt, tiếp tục dai dẳng mãi đến khoảng năm 1916.’11 Nitya, khó bảo hơn Krishna, phàn nàn với Miss Bright rằng không có những món cay trong thức ăn.

 Theo Leadbeater, Bậc Thầy muốn các cậu được giáo dục ở Anh và theo học tại Oxford; vì vậy, vào tháng tám, các cậu được ghi danh ở New College, nơi Krishna được chờ đợi để xét quyền cư trú vào tháng mười 1914. Trở lại Ấn độ và được ráp nối bởi Leadbeater, điều gì được nói là sự hiện thân lần đầu tiên của Chúa Maitreya trong Krishnamurti xảy ra tại Hội nghị Huyền bí học tại Benares vào ngày 28 tháng mười hai. Leadbeater miêu tả dịp này trong một lá thư gửi cho Ruspoli tại Adyar. Krishna đang đứng, đang trao giấy chứng nhận cho những hội viên mới của Tổ chức Vì Sao phương Đông khi ngay lập tức Leadbeater cảm thấy ‘một năng lượng lạ thường tràn qua cậu’ (Krishna) và những hội viên kế cận, khi họ đi thành hàng qua, phủ phục nơi chân của cậu, một số người nước mắt chảy xuống hai má. Ngày hôm sau, tại một họp mặt của Esoteric Section, lần đầu tiên Mrs Besant tuyên bố công khai rằng ‘sau điều gì họ đã thấy và cảm giác, không còn có thể giả vờ để che giấu sự thật rằng thân thể của Krishna đã được chọn bởi Bồ tát (Chúa Maitreya) và lúc này đang được làm hòa hợp vào cho cậu.’

 Tháng giêng năm 1912 Mrs Besant nhận được một lá thư từ Narianiah đe dọa thưa ra tòa để đòi lại quyền bảo hộ các cậu. Ông cho phép bà đưa các cậu sang nước Anh để được giáo dục chỉ vì bà hứa cắt đứt hoàn toàn các cậu khỏi Leadbeater, người mà ông ghét. Theo Narianiah, bà đưa ra cho ông sự hứa hẹn này. Tuy nhiên, bây giờ Leadbeater quả quyết phải tìm một nơi yên tĩnh để ông có thể chuẩn bị Krishna cho sự khai tâm lần thứ hai. Bị Narianiah cấm đoán không được đưa cậu bé đến Nilgiri Hills như ông đã dự tính, Leadbeater bí mật rời Ấn độ để tìm một bố trí phù hợp ở Châu âu, trong khi Mrs Besant, công bố rằng bà cùng các cậu đang đi tàu từ Bombay vào ngày 10 tháng hai, thật ra lên tàu ngày 3. Bà viết cho Narianiah ra lệnh ông phải rời Adyar ngay lập tức.

 Thời gian này Dick Clarke tháp tùng họ và còn cả C. Jinarajadasa (Raja), một người lãnh đạo nổi bật của Theosophical Society mà đã đi ra nước ngoài giảng thuyết vào thời gian khi Krishna được ‘phát hiện’. Ngày 25 tháng ba, chỉ được tháp tùng bởi Clarke và Raja, các cậu đi đến Taormina, Sicily nơi Leadbeater đã bố trí và nơi Arundale nhập thêm vào. Họ ở đó gần bốn tháng, chiếm nguyên một tầng của Hotel Naumachia, Mrs Besant ở cùng họ từ tháng năm đến tháng bảy. Trong suốt chuyến ở lại của họ, Leadbeater nói rằng Krishna và Raja đã nhận sự khai tâm lần thứ hai và Nitya và Arundale lần thứ nhất.

 Tháng bảy Arundale trở lại Ấn độ trong khi Mrs Besant, Raja và các cậu trai quay lại nước Anh, và Leadbeater, người không bao giờ ghé lại nước Anh, đi đến Genoa trong một thời gian ngắn. Mrs Besant viết thư kể cho ông rằng bà đã nhận được một lá thư từ Narianiah yêu cầu bà trao trả hai người con trai trước cuối tháng tám. Lá thư được xuất bản trong một tờ báo ở Madras, Hindu, mà bắt đầu một cuộc công kích hiểm độc vào Mrs Besant, Leadbeater và Theosophical Society. Người biên tập là một kẻ thù cá nhân của Mrs Besant và cả bà lẫn Leadbeater đều tin rằng chính ông ấy đã nắm chóp được Narianiah và đang tài trợ vụ kiện này mà chẳng mấy chốc ông ấy chắc chắn sẽ phát đơn kiện bà. Lúc này bà lại sợ rằng người biên tập này có lẽ cố gắng bắt cóc hai cậu, vì vậy, trước khi quay lại Ấn độ, để các cậu lại nước Anh, bà bảo đảm rằng hai cậu được giấu kín ở quốc gia. Lady De La Warr cho họ mượn ngôi nhà của bà, Old Lodge ở Ashdown Forest, và các cậu ở đó được sáu tháng, với Raja và Dick Clarke như người dạy kèm của họ và hai học trò cũ của Leadbeater như những người bảo vệ. Bà và Miss Bright chịu trách nhiệm công việc nhà. Lady Emily tới thăm họ nhiều lần. Sự quyến luyến lẫn nhau giữa Lady và Krishna đang sâu đậm thêm.

 Luận điểm của Narianiah trong vụ kiện mà ông phát đơn chống lại Mrs Besant tại High Court of Madras là, một cách vắn tắt, bà không có quyền ủy thác sự bảo hộ các cậu cho một người mà ông có ác cảm nhiều. Ông cũng viện dẫn rằng đã có một ‘giao thiệp không tự nhiên’ giữa Leadbeater và cậu con lớn. Mrs Besant, tiến hành sự biện hộ riêng của bà, thua vụ kiện, mặc dù lời buộc tội gây nguy hại nhất, sự giao thiệp không tự nhiên của Leadbeater với Krishna, không được xét đến. Bà được lệnh phải giao lại các cậu cho người cha. Ngay lập tức bà kháng án nhưng cũng thua vụ kháng án. Sau đó bà làm đơn tại The Privy Council ở Anh; quyết định của tòa án ủng hộ bà và bà được miễn án phí. Vụ kháng án được chấp thuận chính yếu trên nền tảng rằng những mong muốn của các cậu đã không được tham khảo và các cậu không được đại diện trong phiên tòa. Các cậu không muốn trở lại Ấn độ và lệnh của tòa án Madras không thể được thực hiện nếu không có sự đồng ý của các cậu. Nhưng đã có quá nhiều sự trì hoãn đến độ quyết định này không được thi hành mãi đến ngày 25 tháng năm 1914, trước thời gian Krishna 18 tuổi, tuổi mà các cậu có được sự trưởng thành theo luật của Ấn độ.12

 Krishna viết cho Mrs Besant ở Ấn độ khi cậu nghe sự phán quyết, cám ơn bà về mọi chăm sóc tử tế của bà từ khi lần đầu tiên bà gặp cậu trên bục giảng tại Madras: ‘Con biết rằng điều duy nhất mà mẹ muốn là con phải giúp đỡ những người khác như mẹ đã giúp đỡ con, và con sẽ mãi mãi nhớ điều này bởi vì con đã đến tuổi trưởng thành và được tự do để theo đuổi ước vọng của con mà không cần sự giám hộ của mẹ.’ Krishna không bao giờ quên gửi cho Mrs Besant những lá thư ngắn đằm thắm kể chút ít về trạng thái thực sự của cái trí cậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8668)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9111)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10029)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10210)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11068)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9042)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9512)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8029)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9295)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11320)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8714)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9070)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17485)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12193)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26092)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9556)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9417)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 9989)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11346)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9709)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10259)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13660)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 15975)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15604)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18631)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13832)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19189)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11710)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23158)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19229)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18317)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8714)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27089)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19988)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15304)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15512)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26835)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16385)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19421)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19783)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19935)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18636)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32486)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20265)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45944)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6870)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22744)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24389)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39265)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20546)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19896)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40790)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18640)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18480)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9200)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14224)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18193)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17656)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant