Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

21. Thế giới của sáng tạo

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7131)
21. Thế giới của sáng tạo

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

21

Thế giới của sáng tạo

M

ùa đông năm đó K không cho phép Mary Zimbalist theo cùng anh đến Ấn độ bởi vì chị đã bị bệnh ở đó năm trước. Chị tự hỏi không hiểu liệu chị sẽ có thể gặp anh lại, anh đã trở nên quá mỏng manh. Anh cam đoan với chị, ‘Nếu anh sắp sửa chết, anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay lập tức. Anh sẽ không chết đột ngột đâu. Anh đang khỏe lắm, quả tim của anh, mọi thứ đều hoàn hảo. Tất cả nó đều được quyết định bởi người nào đó. Anh không thể tiết lộ được. Anh không được phép, em hiểu chứ? Nó nghiêm túc ghê lắm. Có những vấn đề em không thể biết. Kinh khủng lắm, và anh không thể kể cho em. Rất khó khăn để phát hiện một bộ não như thế này và nó phải tiếp tục chừng nào thân thể còn có thể chịu đựng nổi; cho đến khi cái gì đó nói đủ rồi.’

 Khi Mark Edwards chụp ảnh K vào ngày 19 tháng mười, bốn ngày trước khi anh rời để đi Ấn độ, anh ấy nhận thấy K trông khỏe lắm. Tuy nhiên, trong suốt tuần lễ K ở New Delhi, anh ngủ rất ít và hầu như chẳng ăn gì cả đến nỗi khi anh đến Rajghat vào ngày 2 tháng mười một Dr Parchure, người chờ đợi anh, nhận thấy rằng anh yếu ghê lắm. Từ ngày đó bác sĩ không bao giờ rời anh cho đến khi anh chết và ghi lại hàng ngày tình trạng sức khỏe của anh.

 Trong khi K ở tại Rajghat, anh thành tựu một trong những nhiệm vụ chính của anh, nhiệm vụ tìm ra một người Đứng đầu mới (‘Rector’ Hiệu trưởng trung học như chức vụ này được gọi) cho trường Rajghat. Người này là Dr P. Krishna, một cháu trai của Radha Burnier và là Professor Vật lý tại trường đại học Benares Hindu, mà đồng ý, cùng sự chấp thuận của Phó Hiệu trưởng trường đại học của anh ấy, từ bỏ chức vụ đó và đảm trách những bổn phận mới tại Rajghat vào tháng hai.

 Thay vì viết những lá thư hàng ngày cho Mary Zimbalist, như K đã làm trong những chuyến viếng thăm trước khi chị không theo cùng anh, bây giờ K đọc những lá thư dài hơn hầu như mỗi ngày vào một băng cát xét rồi gửi cho chị. Việc này bởi vì tay của anh đã bị run. Anh kể cho chị từ Rajghat, vào ngày 9 tháng mười một, rằng áp suất máu của anh đã hạ thấp đáng kể và hai chân của anh đã ‘loạng choạng’ đến độ hầu như anh không thể bước đi; ngày hôm trước anh đã khụy xuống trên những bậc tam cấp bởi vì anh không thể nhấc chúng lên. Dr Parchure đang giao cho anh vài bài thể dục để tập luyện và xoa bóp hai chân của anh bằng dầu, và anh chắc chắn rằng chúng sẽ nhanh chóng khỏe lại. Anh không còn cảm thấy anh có thể ngồi ăn chung với mọi người và đang dùng những bữa ăn trong giường. Người ta luôn luôn đến gặp anh trong phòng riêng và anh tổ chức những bàn luận ở đó. Pupul Jayakar, Nandini Mehta, Radhika Herzberger, Sunanda và Pama Patwardhan đều ở tại Rajghat. Đến ngày mười một hai chân của anh tương đối đỡ và anh hoàn toàn cảm thấy khỏe khoắn lại. Anh nói về vẻ đẹp của con sông khi mặt trời mọc khoảng 6 giờ 15. Anh đang đọc quyển Lincoln của Gore Vidal và khen nó ‘rất tuyệt vời’.

 Bất kể sự suy giảm sức khỏe của anh, K thực hiện hai nói chuyện trước công chúng tại Rajghat và tham dự một loạt những bàn luận cùng những ủy viên Ấn độ và vài học giả Phật giáo, kể cả Jagannath Upadhyaya.76 Chính phủ Ấn độ đã trao một tài trợ về nghệ thuật cho G. Aravindan, một đạo diễn phim nổi tiếng, để thực hiện một cuốn phim đủ độ dài được đặt nền tảng trên sống của K, The Seer who walks alone Người thấy rảo bước Cô đơn. Cuốn phim đã được khởi quay năm trước và những cảnh cuối được quay tại Rajghat trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng này của K.

 Khi K tiếp tục đến Rishi Valley vào cuối tháng mười một, anh lộ rõ sự yếu ớt của anh, theo Dr Parchure, trong những chuyến dạo bộ buổi chiều khi anh ‘nghiêng ngả về bên phải nhiều đến độ có lẽ anh ngã xuống’. Anh cũng đang cảm thấy lạnh ghê lắm, có thể bởi vì anh đã giảm cân nhiều. Anh bảo với Mary rằng những cái chăn và một chai nước nóng không thể giữ cho thân thể của anh ấm áp vào ban đêm; nhiệt độ đã hạ xuống 48 độ F ngay cả vào những buổi sáng. Anh đang dùng bữa một mình trong phòng như anh đã ăn tại Rajghat và cũng dự định làm như thế ở Madras. Nhưng dường như anh vẫn không có ý tưởng là anh bệnh đến mức độ nào, bởi vì, vào ngày 4 tháng mười hai, anh nói cho Mary rằng anh sẽ đi từ Madras đến Bombay vào ngày 20 tháng giêng, rời Bombay đi London vào ngày 12 tháng hai và, sau bốn ngày tại Brockwood, sẽ tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles và anh sẽ gặp lại chị vào ngày 17 tháng hai. (Thật ra, đó là ngày anh sẽ chết). Vào ngày 11 anh nói rằng anh đang cảm thấy khỏe hơn nhiều, hai chân của anh đang trở nên ‘hơi hơi vững vàng’.

 Vào giữa tháng mười hai, những giáo viên từ tất cả những trường học của Krishnamurti tụ họp tại Rishi Valley cho một hội nghị. Scott Forbes, một trong những người đến từ nước Anh, đã bị xúc động vô cùng bởi sự suy giảm thân thể trong K. Anh ấy sẽ viết sau đó:

Những người tại Rishi Valley rất lo lắng về sự yếu ớt của K, và tất cả những học sinh lẫn giáo viên rất dịu dàngý tứ với anh. Có một ý thức của điềm báo trước trong không gian. Người ta không nói công khai về điều đó – ít nhất không đối với tôi – nhưng đã có nhiều hàm ý loan truyền rằng họ không mong chờ Krishnamrti sẽ có lần quay lại Rishi Valley. Krishnamurti đúng là đang chuẩn bị cho mọi người điều này bởi vì dần dần người ta đã chấp nhận rằng có thể anh sẽ không quay lại Ấn độ.

 Radhika đang đảm trách nhiệm vụ nữ chủ nhà cho mọi người, điều hành hội nghị này và cố gắng chăm sóc Krishnaji cũng như giải quyết những trách nhiệm liên tục của cô trong trường. Tôi nhớ đã tự suy nghĩ nhiều lần rằng cô đã làm rất giỏi và đang xử lý tuyệt vời một tình huống rất, rất khó khăn.77

 

Mọi người rất ngạc nhiên khi K tham dự hội nghị của những giáo viên, nói chuyện ba lần và ‘sắp xếp toàn sự việc trên một nền tảng khác và tỏa ra sự cao cả’, theo một trong những giáo viên người Anh. Vào dịp cuối cùng, K hỏi liệu có một thông minh không được sinh ra từ hiểu biếtvì vậy được tự do khỏi tánh tư lợi. Anh vẽ ra một khác biệt giữa cái trí và bộ não, cái sau là hệ thống vật chất, từ cốt lõi là chỗ ngồi của tư tưởng. Cái trí hoàn toàn khác hẳn bộ não và không liên quan gì đến tư tưởng như thời gian. Anh hỏi, ‘Thời gian có dính dáng với tốt lành?’ và đề nghị rằng, trái với trải nghiệm của con người, tốt lành không liên quan đến xấu xa, hoặc như một phản ứng đến nó hoặc như một trạng thái cơ bản. Anh mang lại cho hội nghị, mà đang bàn luận những chủ đề đó như những chương trình giảng dạy, điều gì, đối với K, là toàn mục đích của những trường học – sản sinh một bộ não mới mẻ bằng cách nào và nở hoa trong tốt lành có nghĩa gì.78

K cũng một mình nói chuyện với các trẻ em trong khi anh có mặt tại Rishi Valley. Anh nhấn mạnh, như anh đã chỉ dẫn cho chúng tôi trong năm 1924 tại Pergine rằng, sự việc tồi tệ nhất là lớn lên tầm thường. Bạn có thể đạt được vị trí cao nhất trên quả đất. Nó là một vấn đề của tồn tại, không phải của thành tựu.

Có sự bàn luận giữa Radhika Herzberger và Scott về một trung tâm tìm hiểu nhỏ sẽ được xây dựng tại Rishi Valley, được tài trợ bởi Friedrich Grohe. Những trung tâm nhỏ cũng sẽ được xây dựng tại Rajghat và tại Uttar Kashi ở Himalayas gần Dehradoon, trên một mảnh đất đã được hiến cho India Foundation và không thể đến được vào mùa đông. Friedrich cũng tài trợ những tòa nhà này.

Một con hoopoe – một con chim có mỏ dài và mào cao – thường đậu trên bệ cửa sổ phòng ngủ của K suốt những bàn luận này, mổ vào tấm kính, muốn bay vào. Nó đã làm công việc này vào nhiều dịp ghé thăm. K chưa bao giờ cho nó ăn và dường như nó không có lý do nào để bay vào, tuy nhiên nó luôn luôn ở đó. K nói chuyện với nó và nói rằng nó thích nghe âm thanh của giọng nói anh. Như thường lệ nó ở đó, mổ vào ô cửa kính trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng của K. Người ta có thể nghe tiếng mổ rất rõ rệt khi lắng nghe băng cát xét của bàn luận.79

Vào ngày 19 tháng mười hai, hai ngày trước khi anh rời đó đi Madras, K đang kể cho Mary trên băng cát xét hàng ngày của anh:

 

Anh đang giảm cân nhiều lắm. Dường như anh bị mệt rất mau. Giữa tháng giêng em sẽ biết liệu anh không đi Bombay và hay anh đi chuyến máy bay của Singapore Airline từ Madras đến Singapore, từ Singapore đến LA . . . Việc đó làm sốt ruột anh lắm – không phải ghé Heathrow - London và sau đó năm ngày, đi một chuyến bay khác đến LA . . . Chúng ta sẽ chờ mọi việc ra sao. Thật ra, anh khỏe lắm, không bị đau tim, không bị nhức đầu; bộ não của anh vẫn bình thường, gan và mọi thứ đều tốt, nhưng có vẻ anh không thể tiếp tục lên cân. Anh đang bị giảm cân, vì vậy có lẽ khôn ngoan khi đi đến Singapore rồi bay thẳng qua biển Thái bình dương . . . nhưng vì anh viết cho em mỗi ngày, nói với em mỗi ngày, em sẽ biết. Chúng ta hãy chờ điều gì xảy đến. Càng đi ít càng tốt cho anh, lúc này mọi thứ làm anh mệt lắm.

 

Có nhiều ngắt đoạn trong cuốn băng này khi K nói với cái gì đó mà chắc chẳn là con chim hoopoe: ‘Vào đây đi. Tôi ở đây nè, thôi mà. Thôi mà cô gái thân yêu. Tôi ở phía này nè. Hãy đến và ngồi xuống đi. (Xin lỗi, anh đang nói chuyện với những con chim.) Em có đôi mắt rất sắc, phải không!’

Ngày 21, như anh bảo Mary, anh hủy bỏ những nói chuyện Bombay của anh và quyết định đi máy bay đến Los Angeles quá cảnh Singapore. Anh tiếp tục nói, ‘Anh không thể sụt cân thêm nữa. Anh đã sụt nhiều lắm rồi và nếu còn bị sụt nữa anh sẽ yếu lắm và sẽ không thể đi được nữa. Việc đó sẽ không tốt gì cả.’

Lúc này anh yêu cầu Scott theo anh đến Ojai thay vì quay lại Châu âu cùng những giáo viên khác và yêu cầu đổi vé của Dr Parchure và anh để đi máy bay Singapore Airline và mua một vé cho Scott. May thay, Scott có một American Express card để thực hiện sắp xếp này. K không thể chịu được cái lạnh của Châu âu. Anh muốn rời ngay sau những nói chuyện Madras, và những gặp gỡ của những ủy viên Ấn độ sẽ theo sau, là kết thúc.

Dr Parchure sắp xếp cho K có một hội chẩn với một bác sĩ nổi tiếng ngay khi anh đến Madras. Lúc này anh chỉ cân nặng 97 lbs và đang bị sốt. Bác sĩ, đang nghi ngờ anh bị khối u ác tính nào đó, muốn thực hiện những thí nghiệm, nhưng K không đồng ý thực hiện bất kỳ việc gì mà sẽ gây ảnh hưởng những nói chuyện của anh. Anh thực hiện ba thay vì bốn nói chuyện trước công chúng, vào những chiều tối trong vườn của Vasanta Vihar, và yêu cầu Scott chuyển sớm ngày đi từ ngày 17 tháng giêng lên ngày 10. (Dr Parchure ghi lại, gần như anh đang vội vàng về Ojai để Dr Deutch chăm sóc.) Mặc dù anh bệnh ghê lắm, anh tiếp tục dạo bộ mỗi ngày trong những buổi chiều hơi muộn trên bãi biển từ nhà của Radha Burnier.

Vào đầu tháng giêng tất cả những người đang ở tại Vasanta Vihar, ngoại trừ K, đi xem buổi chiếu đầu tiên của cuốn phim Aravinda ở Madras mà đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn kỷ lục. Có vài cảnh quay đẹp trong cuốn phim, mặc dù hơi đáng tiếc là những nơi chúng ta thấy K đang dạo bộ hay nói chuyện lại không được nhận ra.80 K chấm dứt nói chuyện lần thứ ba của anh vào ngày 4 tháng giêng năm 1986 – nói chuyện cuối cùng mà anh đã thực hiện – bằng những từ ngữ:

 

Sáng tạo là cái gì đó thiêng liêng nhất. Đó là sự việc thiêng liêng nhất trong sống và nếu bạn đã tạo ra sự hỗn loạn trong sống, thay đổi nó. Thay đổi nó hôm nay, không phải ngày mai. Nếu bạn còn ngờ vực hãy tìm ra tại sao và hãy kiên định. Nếu suy nghĩ của bạn không ngay thẳng, hãy suy nghĩ ngay thẳng, hợp lý. Nếu tất cả điều đó không được sẵn sàng, nếu tất cả điều đó không được giải quyết, bạn không thể thâm nhập vào thế giới của sáng tạo này.

kết thúc. (Hai từ này hầu như không nghe rõ, được thở ra thay vì được nói. Chúng chỉ nghe được trên băng cát xét. Chúng không thể nghe được bởi khán giả.)

 

Tiếp theo, sau khi ngừng lâu, anh thêm vào, ‘ Đây là nói chuyện cuối cùng. Các bạn có muốn cùng nhau ngồi yên lặng một chốc lát không? Được rồi, thưa các bạn, hãy ngồi yên lặng một chốc lát.’81

Tại gặp gỡ Indian Foundation tiếp theo sau những nói chuyện, K khẳng định rằng những ngôi nhà nơi anh đã sống không nên trở thành những nơi dành cho sự hành hương, rằng không hệ thống thờ cúng tôn giáo nào được khai triển quanh anh. Và anh yêu cầu những ghi nhớ dưới đây được thêm vào trong những nội quy và điều lệ của Foundation:

 

Dù trong bất kỳ tình huống nào, không Foundation hay bất kỳ những học viện nào trong sự bảo trợ của nó, hay bất kỳ những thành viên của nó sẽ tự-thiết lập họ như những thẩm quyền trên những lời giảng của Krishnamurti. Điều này phù hợp với sự tuyên bố của Krishnamurti rằng không người nào tại bất kỳ nơi nào có quyền tự-thiết lập như một thẩm quyền trên anh và những lời giảng của anh.82
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8697)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9129)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10049)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10233)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11087)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9064)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9533)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8061)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9330)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11345)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8725)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9093)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17525)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12212)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26177)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9572)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9441)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10008)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11403)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9735)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10285)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13710)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16025)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15650)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18685)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19125)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18944)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13875)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19238)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11743)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23220)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19288)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18364)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8737)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27124)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20005)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15329)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15540)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26864)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16423)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19457)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19825)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19976)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18671)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32549)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20310)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 45987)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6893)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22775)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24423)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39311)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20576)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19929)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40833)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18674)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18499)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9223)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14240)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18217)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17703)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant