Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Chương Thứ Mười Ba

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12497)
13. Chương Thứ Mười Ba
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười ba

Thuyết sanh nhân Tịnh độ của các nhà Ấn Độ, Trung Quốc

Tiết thứ nhất

Thuyết xưng danh bất thoái của ngài Long Thọ

Sinh nhân của việc tu hành vãng sanh Tịnh độ nói trong kinh A-di-đà v.v… đã được thuật ở đoạn văn trên. Nghiên cứu về thuyết của các nhà bắt đầu từ Ấn Độ đến Trung QuốcNhật Bản chủ trương có liên quan đến các kinh này; đồng thời, căn cứ vào phương pháp thực tiễn, hoặc bàn luận tác dụng của các kinh ấy cho đến phát biểu các loại giải thích. Hiện nay chỉ nghiên cứu thuyết của năm, ba nhà chủ yếu.

Hai ngài Long ThọThế ThânẤn Độ đều ca ngợi Phật Di-đà và Tịnh độ của Ngài; đồng thời nói về phương pháp vãng sanh Tịnh độ. Trong phẩm Dị hành, luận Thập trụ tì-bà-sa quyển 5 của ngài Long Thọ trứ tác có giảng nói hai đạo nan và dị. Nếu bồ-tát muốn đạt đến địa vị A-duy-việt-trí, tức Bất thoái địa thì có hai đạo nan hànhdị hành. Trải qua thời gian lâu dài, bồ-tát tinh tiến tu tập, đạt đến địa vị A-duy-việt-trí, gọi là đạo nan hành; dùng thâm tín làm phương tiện dị hành thì được nhanh chóng đạt đến địa vị A-duy-việt-trí, gọi là đạo dị hành. Nhưng pháp dị hành chỉ dạy xưng niệm danh hiệu Đức Phật Thiện Đức v.v… ở phương đông cùng mười Đức Phậtmười phương và Phật A-di-đà, Phật Thế Tự Tại Vương v.v…Trong đó, liên quan Phật A-di-đà, đặc biệt nêu ra kệ tán ba mươi hai hàng. Trước phần kệ tán có ghi: “Bản nguyện Phật A-di-đà như thế, nếu người niệm danh hiệu Ta và tự quy y, liền nhập Tất định đắc Vô thượng chính đẳng chính giác”. Trong kệ tán ghi: “Người niệm Đức Phật này có vô lượng sức uy đức, tức thời nhập Tất định”. (Đại Chính, 26, 43, thượng), là nói niệm Phật Di-đà, xưng danh hiệu của Ngài, lập tức nhập Tất định.

‘Tất định’ là chỉ bồ-tát sơ phát tâm, đồng thời bắt đầu nhập Chính định tụ. A-duy-việt-trí là sau khi nhập chính định, lại phải vào chính vị[1] của chính tính li sanh[2] hai loại này là không giống nhau. Điều này trong phẩm Tất định, kinh Đại phẩm bát-nhã quyển 26 nói: “Bồ-tát sơ phát tâm cũng nhập Tất định, bồ-tát A-duy-việt-trí cũng nhập Tất định”.

Lại nữa, trong phẩm Nhập sơ địa, luận Thập trụ tì-bà-sa quyển 1 nói: “Hoặc có bồ-tát sơ phát tâm liền nhập Tất định, dùng tâm này đắc Sơ địa (tức A-duy-việt-trí)” (Đại Chính 26, 24, hạ) thì có thể biết.

Kinh Đại A-di-đà nói, sau khi vãng sanh Tịnh độ, mới đắc A-duy-việt-trí và ngài Long Thọ cũng nói sau khi vãng sanh mới đắc A-duy-việt-trí, thân hiện tại chỉ nhập địa vị Tất định. Liên quan đến nhân của hạnh vãng sanh, tuy chưa có nói điều gì khác, chỉ lấy ‘xưng niệm danh hiệu của Ta’ làm nhân nhập Tất định. Cho nên, sau khi vãng sanh đắc địa vị A-duy-việt-trí, cho là cũng lấy điều này làm phương pháp tu hành chủ yếu để vãng sanh.

 

Tiết thứ hai

Thuyết năm môn sanh nhân của ngài Thế Thân

Ngài Thế Thân trứ tác có Vô Lượng Thọ kinh Ưu-bà-đề-xá nguyện sanh kệ (còn có tên luận Vãng sanh), tự cầu vãng sanh về nước An Lạc phải lấy năm niệm môn là Lễ bái, Tán thán, Tác nguyện, Quán sátHồi hướng làm nhân tố tu hành vãng sanh. Tức là thân nghiệp lễ bái A-di-đà Như Lai, mong muốn sanh về cõi nước của Ngài, gọi là Lễ bái môn. Khẩu nghiệp tán thán, xưng niệm danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai khắp mười phương, đúng danh nghĩa của Ngài, tu hành tương ưng đúng như thật, gọi là Tán thán môn. Nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện vãng sanh về nước của Ngài, tu hành xa-ma-tha đúng như thật, gọi là Tác nguyện môn. Dùng trí tuệ chính niệm quán ba loại công đức trang nghiêm của cõi nước Cực Lạc, tu hành tì-bát-xá-na đúng như thật, gọi là Quán sát môn. Không bỏ tất cả chúng sanh đang bị đau khổ ra tay cứu vớt họ, cùng chung phát nguyện đồng sanh về cõi Cực Lạc, thành tựu tâm đại bi, gọi là Hồi hướng môn.

Trong đó, Tán thán môn nói: “Mong muốn đúng danh nghĩa của Phật Di-đà, tu hành tương ưng đúng như thật”. Tương ưng là dịch từ tiếng Phạn là Du-già (Yoga), tức là tu hành Du-già đúng như thật. Trước tiên, hiểu rõ ý nghĩa của sự tán thán công đức quang minh của Như Lai. Tác nguyện môn nói: “Mong muốn tu hành xa-ma-tha đúng như thật”. Vì tác nguyệnnhất tâm chuyên niệm cầu nguyện vãng sanh, xa-ma-tha là chỉ thuận theo việc này mà cầu nguyện”. Quán sát môn nói: “Mong muốn tu hành tì-bát-xá-na đúng như thật, chính niệm quán sát hai báo y, chính cõi nước An Lạc của Phật A-di-đà”. Tì-bát-xá-na tức là quán thuận theo việc này mà mong cầu.

Du-già sư địa luận thích của ngài Tối Thắng Tử giải thích nghĩa Du-già: “Cảnh, hạnh, quả v.v… của tất cả thừa và hết thảy các pháp đều gọi là Du-già”. Vì thế, giải thích nghĩa trong tất cả pháp có phương tiện thiện xảo tương ưng. Giải thích Du-già có bốn loại sai biệt là Cảnh du-già, Hạnh du-già, Quả du-già và Giáo du-già.

Giải thâm mật kinh sớ quyển 6 của ngài Viên Trắc giải thích: “Đối với tính của uẩn, giới, xứ, cảnh bốn đế không điên đảođạt đến tính cứu cánh, tương ưng với chính lí, giáo, hạnh, quả nên gọi là Cảnh du-già. Tuỳ thuận thực hành theo đường lối xa-ma-tha, tì-bát-xá-na bình đẳng hợp với chính lí, thuận với chính giáo hướng đến chính quả, gọi là Hạnh du-già. Tuỳ thuận thập lực, vô uýbất cộng pháp của Như Lai, cho đến công đức hữu vi, vô vi, hợp với chính lí, thuận với chính hạnh, xứng với chính nhân, gọi là Quả du-già. Thánh giáo thì hợp với chính lí, thuận với chính hạnh, đưa đến chính quả, gọi là Giáo du-già”.

Tán thán môn của luận này lấy danh tướng Vô Ngại Quang của Như Lai khắp mười phương, gọi là tương ưng Du-già, có thể thấy là tương đương với Quả du-già. Hai môn Tác nguyệnQuán sát tức là xa-ma-tha, tì-bát-xá-na tương đương với Hạnh du-già. Giải thích Hồi hướng môn là bồ-tát hành phương tiện hồi hướng, cũng tức là nói ý nghĩa của Hạnh du-già. Ba loại sở quán, hai mươi chín loại công đức trang nghiêm tương đương với Cảnh du-già.

Luận này nói kệ: “Ta y tu-đa-la, tướng công đức chân thật, nguyện nói kệ tổng trì, tương ưng với Phật dạy”. Tương đương với nghĩa Giáo du-già. Do đó, năm niệm môn trong luận Vãng sanh đã nói là căn cứ giáo lí Du-già tổ chức mà thành. Trong đó, hai môn tác nguyệnquán sát của Hạnh du-già thì trong mười tám viên tịnh của luận Nhiếp Đại thừa đã kiến lập gọi là Thừa viên tịnh. Ngài Thế Thân cũng nói điều này là chính hạnh vãng sanh Tịnh độ. Lại trong Quán sát môn nêu ra mười bảy loại cõi nước trang nghiêm, Đức Phật trang nghiêm có tám loại, bồ-tát trang nghiêm có bốn loại, tổng cộng có hai mươi chín loại công đức trang nghiêm làm chính niệm quán sát. Điều này văn trước đã thuật, cho nên nay lược bớt.

Tiết thứ ba

Thuyết bản nguyện tha lực của ngài Đàm Loan

Các nhà Phật giáo Trung Quốc y cứ vào ba phúc và mười sáu pháp quán trong Quán kinh làm nhân của hạnh vãng sanh; hoặc y cứ vào năm niệm môn của luận Vãng sanh làm nhân được vãng sanh Tịnh độ; còn xưng danh thì y cứ vào kinh Vô Lượng Thọ làm hạnh của chính nhân bản nguyện, các thuyết khác thì rất nhiều đến nỗi không biết là có bao nhiêu.

Trong đó, ngài Đàm Loan chú giải luận Vãng sanh của ngài Thế Thân, lấy năm niệm môn làm nhân của hạnh vãng sanh, lại xác nhận sức bản nguyện của Như Lai rất mạnh mẽ nên chủ trương vãng sanh là nhờ tha lực. Giải thích Tán thán môn trong luận Vãng sanh xưng niệm danh hiệu Như Lai, tu hành tương ưng đúng như thật thì có thể viên mãn tất cả chí nguyện. Nhưng nếu tín tâm không thuần hậu, tín tâm không quyết định, tín tâm không tương tục thì không thoả mãn chí nguyện vãng sanh; đây gọi là ba loại không tương ưng. Còn tín tâm thuần hậu, quyết định, tương tụcđiều kiện cần phải đầy đủ để thoả mãn chí nguyện vãng sanh; ở đây đặc biệt nhấn mạnh tín tâm. Cho nên đến đời sau, pháp môn Tịnh độ nhấn mạnh tín tâm, đó là nền tảng chủ yếu.

Lại nữa, giải thích Hồi hướng môn có hai loại:

1.Vãng tướng hồi hướng: Đem công đức thiện căn đã làm đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, cùng nguyện vãng sanh Tịnh độ.

2. Hoàn tướng hồi hướng: Sau khi vãng sanh, thành tựu lực phương tiện, lại trở lại thế giới Ta-bà giáo hoá tất cả chúng sanh, lập nguyện cùng chung hướng đến Phật đạo.

Hai loại hồi hướng này gọi là Vô thượng bồ-đề; vì thế, người muốn cầu vãng sanh, cần phải phát tâm Bồ-đề. Đây gọi là thuyết chính nhân bồ-đề tâm, phát huy ý nghĩa sâu kín của luận Vãng sanh.

Lại nữa, ngài Đàm Loan theo thuyết hai đạo nan và dị của ngài Long Thọ, chủ trương đắc Bất thoái chuyển. Nhưng Bất thoái chuyển phải sau khi vãng sanh thì mới có thể đắc; cho nên, muốn đắc địa vị Bất thoái chuyển trước phải vãng sanh Tịnh độ. Lại nữa, vãng sanh Tịnh độ thì vượt qua hạnh của các địa nhanh chóng tu tập hạnh Phổ Hiền, để tự mình sớm được thành Phật, vì làm những việc này trở thành hiện thực; cho nên nói đều do Phật lực gia hộ. Tức là việc vãng sanh Tịnh độ theo nguyện thứ mười tám trong kinh Vô Lượng Thọ nói, người niệm Phật vãng sanhdựa vào nguyện lực. Sau khi vãng sanh đắc Bất thoáiy cứ vào nguyện đắc Bất thoái chuyển của nguyện thứ mười một trong kinh này. Vượt qua hạnh của các địa, sớm được thành Phậty cứ vào nguyện thứ hai mươi hai trong kinh này nói lí do chắc chắn đến bậc Bổ xứ.

Luận Vãng sanh quyển hạ của ngài Thế Thân trứ tác nói tu năm niệm môn, tự lợi lợi tha, mau đắc Vô thượng chính đẳng chính giác, ý của luận muốn nói nhờ A-di-đà Như Lai làm tăng thượng duyên. Tất cả bồ-tát, người, trời khởi các hạnh được vãng sanh về Tịnh độ Di-đà đều nhờ sức bản nguyện của Phật A-di-đà. Nếu chẳng phải Phật lực thì bốn mươi tám nguyện trở thành vô dụng. Nói về bốn mươi tám nguyện, đặc biệt là ba nguyện thứ mười một, thứ mười tám và thứ hai mươi hai nói vãng sanh Tịnh độ là việc có khả năng sớm thành Phật.

Nói tóm lại, ngài Đàm Loan được tôn xưng là Thỉ tổ của tông Tịnh độTrung Quốc, chủ trương của ngài phần nhiều làm tiêu chuẩn cho đời sau, đặc biệt là luận điểm Di-đà bản nguyện của ngài đã truyền thừa cho các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo v.v... Nhờ vậy mà tư tưởng trung tâm của Tịnh độ giáo được phát triển rộng rãi.

 

Tiết thứ tư

Thuyết hai nhân thông và biệt của ngài Ca Tài

Luận Tịnh độ của ngài Ca Tài, đời Đường cho rằng sanh nhân Tịnh độ có hai nhân Thông và Biệt:

1. Thông nhân: Sanh nhân chung để vãng sanh về Tịnh độ khắp mười phương, như văn tam bối của kinh Vô Lượng Thọ đều nói phát tâm Bồ-đề là Thông nhân. Lại như Quán kinh nói tu ba phúc tịnh nghiệp thì được vãng sanh, cũng chỉ thuyết này.

2. Biệt nhân: Sanh nhân đặc biệt chiêu cảm Tịnh độ Tây phương. Trong đó, cũng có sự sai biệt của thượng căn, trung cănhạ căn. Thượng căn là tu năm niệm môn như lễ bái v.v…và sáu pháp như niệm Phật v.v…Trung căn và hạ căn cần phải tu năm pháp như sám hối v.v…Trong sáu pháp của thượng căn, niệm Phậtniệm Phật A-di-đà, niệm có sai khác là tâm niệm và khẩu niệm. Tâm niệm sắc thân tướng hảo quang minh v.v…của Phật A-di-đà; lại niệm trí thân, năm phần pháp thân, đại từ đại bi v.v… của Phật A-di-đà thì gọi là tâm niệm.

Miệng xưng niệm danh hiệu Phật Di-đà gọi là khẩu niệm. Sức của khẩu niệm không bằng sức tâm niệm; bởi vì không thể trực tiếp niệm Phật Di-đà nên phải dùng miệng xưng niệm để trợ giúp cho tâm niệm để cho tâm khôngbuông lung, tán loạn. Do đó, chúng ta có thể biết ngài Ca Tài chú trọng tâm niệm, khuyên mọi người dùng phương pháp khẩu niệm để trợ giúp tâm niệm.

Năm pháp của trung cănhạ căn:

1. Sám hối ác nghiệp gây chướng đạo.

2. Phát tâm Bồ-đề.

3. Thường chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà.

4. Quán sát tổng tướng Tịnh độ Di-đà.

5. Hồi hướng công đức đã làm, nguyện sanh về cõi Cực Lạc.

Bởi vì, ngoài năm niệm môn ra, ngài còn lập riêng một môn niệm Phật, không giống niệm Phật của kinh Bát-chu tam-muộiquán sát của Quán kinh v.v…Lại lấy phát tâm Bồ-đề làm hạnh chung cho cả ba căn, chúng ta có thể thấy ngài Ca Tài kế thừa chủ trương của ngài Đàm Loan.

 

Tiết thứ năm

Thuyết chính và trợ hợp hành của ngài Nguyên Hiểu

Vô Lượng Thọ kinh tông yếu của ngài Nguyên Hiểu, người Tân La cho rằng vãng sanh Tịnh độ có sự sai khác của chính nhân và trợ nhân, lấy tâm bồ-đề làm chính nhân. Các hạnh của tam bối trong kinh Vô Lượng Thọ, mười sáu pháp tưởng trong Quán kinh, chấp trì danh hiệu trong kinh A-di-đà và năm niệm môn trong luận Vãng sanh v.v…đều được gọi là trợ nhân. Trong đó, tâm bồ-đề là không cầu phúc lạc thế gian và niết-bàn của nhị thừa, chí nguyện nhất tâm đắc ba thân bồ-đề. Trong phát tâm có hai loại:

1.Tuỳ sự phát tâm: Biết rõ sự thật tục đế thế gian theo đó mà phát tâm, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp thiện vô lượng thệ nguyện tu, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Thứ nhất là chính nhân đoạn đức của Như Lai, thứ hai là chính nhân trí đức của Như Lai, thứ ba là chính nhân ân đức của Như Lai. Hợp ba đức này là quả Vô thượng bồ-đề, gồm đủ ba loại phát tâm này mới thành chính nhân của Vô thượng bồ-đề.

2. Thuận lí phát tâm: Ngay lúc phát tâm thuận theo chân lí, tức là tin hiểu các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, như huyễn như mộng, tuy không thấy sự sai biệt của phiền nãothiện pháp mà cũng chẳng đoạn chẳng tu, y theo nguyện mà đoạn các phiền não, y theo nguyện mà tu các thiện pháp, nhưng chẳng trái với vô nguyện tam-muội.

Lại nữa, tuy nguyện độ vô biên chúng sanh, nhưng không thấy sự sai biệt của năng độ và sở độ. Như thế thì có thể tuỳ thuận không, vô tướng, vô nguyện tam-muội; do đó mà tiến hành thì gọi là thuận lí phát tâm.

Tuỳ sự phát tâm có nghĩa thoái chuyển. Trái lại, Tuỳ lí phát tâmnghĩa không thoái chuyển, công đức sau vượt ra hơn công đức trước.

Tâm bồ-đề là chính nhân của Vô thượng bồ-đề, cũng là chính nhân của sự vãng sanh, vãng sanh Tịnh độ được gọi là hoa báo, tức là trước khi kết quả Vô thượng bồ-đề phải nở hoa này. Cầu vãng sanh Tịnh độđắc quả lớn Vô thượng bồ-đề; vì thế, chính nhân của Vô thượng bồ-đề tức là chính nhân của Tịnh độ. Như vậy, ngài Nguyên Hiểu kế thừa thuyết của ngài Đàm Loan, lấy bồ-đề tâm làm chính nhân của Tịnh độ, lấy bồ-đề tâm làm dẫn nghiệp của vãng sanh, đối với mười sáu pháp quán trong Quán kinh gọi chung là trợ duyên làm mãn nghiệp của Tịnh độ.

 

Tiết thứ sáu

Thuyết quán tưởngxưng danh có hơn kém của ngài Nguyên Tín

Trong Vãng sanh yếu tập của ngài Nguyên TínNhật Bản kiến lập hai môn chính tu niệm Phậtphương pháp trợ niệm. Lấy năm niệm môn như lễ bái v.v…làm chính tu niệm Phật. Sáu việc như nơi chốn, vật cúng v.v… gọi là phương pháp trợ niệm. Khuyên mọi người lấy chính tu niệm Phậtphương pháp trợ niệm hợp lại thực hành để cầu vãng sanh. Năm niệm môn gọi là chính tu niệm Phật, trong đó lấy quán sát môn làm niệm Phật, cho rằng đây là sự thực hành rất thiết yếu của việc vãng sanh.

Quán sát môn ngài Nguyên Tín nói, người sơ tâm phải tu quán sắc tướng. Trong pháp quán này có ba loại sai khác là biệt tướng, tổng tướng và tạp lược. Quán toà sen của Phật và quán mỗi tướng hảo của Phật gọi là quán biệt tướng. Quán chung tám vạn bốn nghìn tướng hảo quang minh của Phật A-di-đà; hoặc là quán ba thân, tức là quán tất cả chư Phật đồng thể, gọi là quán tổng tướng. Quán một tướng lông trắng cho đến tự quán vãng sanh, lại có người không đủ khả năng quán tướng hảo nên họ đổi ra quy y mạng tưởng, hoặc dẫn nhiếp tưởng, hoặc vãng sanh tưởng, nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì gọi là quán tạp lược. Đây là chủ yếu quán tướng hảo của Đức Phật. Nếu như người không dùng pháp quán tưởng thì đổi sang xưng niệm danh hiệu Đức Phật, cho nên nói quán tưởng thì hơn, xưng danh hiệu thì kém.

Lại nữa, Tác nguyện môn của ngài Nguyên Tín giải nghĩa bốn hoằng thệ nguyện đồng nghĩa với phát Bồ-đề tâm. Nói về phát tâm này có hai loại khác nhau là duyên sự và duyên lí.

Bốn hoằng thệ nguyện của duyên sự:

1. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ: Nguyện này tức là Nhiêu ích hữu tình giới trong ba tụ tịnh giới, tâm ân đức trong ba đức, duyên nhân Phật tính trong ba nhân Phật tính. Nhân của ứng thân bồ-đề trong ba thân bồ-đề.

2. Phiền não vô tận thệ nguyện độ: Nguyện này tức là Nhiếp luật nghi giới, tâm đoạn đức, chính nhân Phật tính, nhân của pháp thân bồ-đề.

3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện biết: Nguyện này tức là Nhiếp thiện pháp giới, tâm trí đức, liễu nhân Phật tính, nhân của báo thân bồ-đề.

4. Vô thượng Bồ-đề thệ nguyện chứng: Do đầy đủ ba loại hạnh nguyện trước, chứng đắc ba thân viên mãn bồ-đề, tức là thệ nguyện đối với quả mà lập.

Đây là vì duyên theo sự tướngphát nguyện, nên gọi là phát tâm của duyên sự, lại có thể phối hợp với chúng sanh duyên từ và pháp duyên từ.

Bốn hoằng thệ nguyện của duyên lí: Thuận theo một sắc, một hương đều là lí trung đạo, khởi vô duyên từphát nguyện, gọi là bồ-đề tâm tối thượng. Chúng ta đủ thấy cách giải thích này cùng với thuyết của ngài Nguyên Hiểu đã thuật ở đoạn văn trước đồng một ý nghĩa.

Kế đến, phương pháp trợ niệm nghĩa là phương pháp quán niệm để thành tựu việc lớn vãng sanh, ở đây có nơi chốn, vật cúng dường, tướng mạo tu hành, đối trị giải đãi, dừng ác tu thiện, sám hối các tội, đối trị sáu việc của ma sự. Nhưng ngài lại từ trong chính tu niệm Phậtphương pháp trợ niệm chỉ ra sự tu hành rất quan trọng. Hạnh vãng sanh lấy niệm Phật làm gốc, niệm Phật phải đầy đủ thâm tín, chí thành và thường nghĩ ba việc. Đồng thời, hạnh nương theo nguyện mà sanh khởi, cho nên tâm cầu nguyện vãng sanh Tịnh độđiều kiện tất yếu, chẳng những phát tâm bồ-đề, trì mười giới trọng mà còn giữ gìn lỗi lầm của ba nghiệp.

Trong đó, tâm bồ-đề là Tác nguyện môn trong năm niệm môn, niệm Phật là chỉ cho Quán sát môn. Lại nữa, trì giới là dừng ác tu thiện trong phương pháp trợ niệm; thâm tín, chí thànhnguyện tâmtu hành ba tâm như tâm chí thành v.v…trong hành tướng. Thường niệm danh hiệu Phật giống như Vô gián tu trong bốn pháp tu. Tức là lấy phát tâm bồ-đề, trì mười giới trọng, đầy đủ ba tâm, thường quán tướng hảo của Đức Phật, hoặc xưng niệm danh hiệu là sự tu hành rất trọng yếu để vãng sanh Tịnh độ.

Ngoài ra, Trung QuốcNhật Bản đều có nhiều thuyết liên quan đến nhân của hạnh vãng sanh, văn hiến của các thuyết này lưu truyền rất nhiều. Trong Tịnh độ giáo sử nói tỉ mỉ, ở đây chỉ nói sơ lược.

----------------

[1] Chính vị正位: Niết-bàn của Tiểu thừa.

[2] Chính tính li sanh正性離生: Niết-bàn xa lìa phiền não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 300)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 528)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 514)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 487)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 555)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 347)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 468)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 808)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1162)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1472)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1194)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1115)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2319)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1520)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1796)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2195)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1907)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2620)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4770)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2646)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6337)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3267)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3059)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2913)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3696)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3192)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8106)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2853)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8534)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4418)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8163)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6748)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11235)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22854)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5267)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11783)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11408)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12604)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34653)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32815)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22200)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12539)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11893)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10408)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10898)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11834)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11741)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10962)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10739)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11418)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7205)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6549)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7241)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5739)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6441)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6033)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9397)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5920)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5904)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5649)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant