Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 03: Kết liênniệm Phậttư tưởng Huệ ViễnLô Sơn

20 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10903)
Chương 03: Kết liên xã niệm Phật và tư tưởng Huệ Viễn ở Lô Sơn

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC

Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm


CHƯƠNG III: KẾT LIÊNNIỆM PHẬTTƯ TƯỞNG HUỆ VIỄNLÔ SƠN

Tiết 1: Sự tích ngài Huệ Viễn

Ngài Huệ ViễnLô sơn, Giang Tây (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây) kết Bạch Liên xã, ngài cùng với đồ chúng tinh tấn niệm Phật tam-muội, là sự thật rất nổi tiếng. Giáo lí Tịnh Độ khế cơ này không chỉ hưng thịnh vào thời bấy giờ, mà còn cảm hóa đến đời sau, ngày nay ngài được tôn xưng là sơ tổ của tông Tịnh ĐộTrung Quốc.

Ngài Huệ Viễn sinh vào niên hiệu Hàm Hòa thứ 9 (334TL), đời vua Thành Đế, thời Đông Tấn, người Lâu Phiền, Nhạn Môn (huyện Quách, châu Đại tỉnh Sơn Tây). Năm 13 tuổi, ngài du học ở Hứa Xương, Lạc Dương (Hứa Châu, tỉnh Hà Nam), thông hiểu sâu rộng Lục Kinh[4], nhất là về Lão, Trang. Năm 21 tuổi, ngài đến Hằng Sơn, Thái Hành (châu Uẩn Nguyên, phủ Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây), nghe ngài Đạo An giảng kinh Bát-nhã, hốt nhiên có chỗ lĩnh ngộ, liền cùng em là ngài Huệ Trì lễ ngài Đạo An, xin xuất gia, ngày đêm siêng năng, ngài lãnh hội được lí thú của kinh Bát-nhã. Sau đó, ngài và hơn bốn trăm bạn đồng học cùng theo ngài Đạo An đến Tương Dương (huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Niên hiệu Kiến Nguyên thứ 15 (379TL), đời Phù Tần, quân Phù Kiên tấn công vây hãm thành Tương Dương, ngài Đạo An theo bạn trở về Trường An (phủ Tây An, tỉnh Thiểm Tây), ngài Huệ Viễn chia tay với ngài Đạo An, đem vài chục người đệ tử đến Kinh Châu (huyện Giang Lăng, phủ Kinh Châu, Hồ Bắc) trú ở chùa Thượng Minh. Niên hiệu Thái Nguyên thứ 6 (381TL), thời Đông Tấn, mới vào Lô sơn, ngụ tại tinh xá Long Tuyền. Bấy giờ, có thứ sử Hoàn Y xây dựng tinh xá Đông Lâm ở phía đông Lô sơn cho ngài Huệ Viễn, trong chùa xây riêng một thiền lâm, có khám thờ hình vẽ Đức Phật, lại thỉnh tượng Phật được tạc vào thời vua A Dục từ Vũ Xương đến Lô sơn, ngài ở đó hướng dẫn đồ chúng hành đạo, không quản ngày đêm.

Vào niên hiệu Thái Nguyên thứ 16 (391TL), ngài cung thỉnh sa-môn Tăng-già-đề-bà người nước Kế-tân đến Lô sơn để dịch lại A-tì-đàm tâm luậnTam pháp độ luận, năm sau ngài sai đệ tử là Trúc Pháp Lĩnh đến Tây Vực, cầu thỉnh kinh bản Phạn.

Đương thời, tiếng tăm của ngài Huệ Viễn vang khắp bốn phương, đạo tục phần nhiều không hẹn mà đến, họ đều bỏ vinh hoathế gian từ xa tìm đến để tu học Phật pháp. Tháng 7, Nguyên Hưng nguyên niên (402TL) ngài cùng với Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông v.v…tất cả là một trăm hai mươi ba người ở trước tượng Phật A-di-đà tại tinh xá Bát-nhã Đài kiến lập trai đàn thệ nguyện cùng nhau cầu sinh Tây phương, tu niệm Phật tam-muội, đây gọi là Lô sơn Bạch Liên xã, chính là nguồn gốc của Kết xã niệm Phật. Đương thời, Lưu Di Dân làm bài văn phát thệ, sau đó mọi người đều làm thơ ca ngợi tịnh độ, gom lại đặt tên là Niệm Phật tam-muội thi tập, ngài Huệ Viễn viết bài tựa. Năm sau, Hoàn Huyền nổi lên tự xưng vương ở Giang Đông, ông ta bắt buộc sa-môn phải cung kính vua chúa, ngài Huệ Viễn bèn trứ tác luận Sa-môn bất kính vương giả. Về sau, nghe ngài La-thập đến Trường An, ngài cho người đưa thư và tặng phẩm vật, qua lại giao hảotiện thể đem nghĩa lí sâu xa trong đại thừa phân ra 18 khoa và chất vấn những điểm nghi ngờ trong đó. Niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 7, thời Diêu Tần (405TL), ngài La-thập dịch luận Đại trí độ, vua Diêu Hưng tặng ngài Huệ Viễn bộ luận ấy và thỉnh ngài làm bài tựa. Về sau, Huệ Viễn sao lại yếu văn của luận Đại trí độ, soạn thành 20 quyển. Kế đó, Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) rời Trường An đến Lô sơn, ngài Huệ Viễn thỉnh ngài dịch Đạt-ma-đa-la thiền kinh v.v…đồng thời thụ học pháp thiền.

Ngài Huệ ViễnLô sơn hơn 30 năm, không hề ra khỏi núi. Mỗi lần tiễn khách, ngài thường lấy dòng Hổ Khê làm ranh giới. Vào đầu tháng 8 niên hiệu Nghĩa Hi thứ 12 (416TL), ngài bị bệnh, đến ngày mồng sáu thì trở nặng, những vị đại đức lớn tuổi đều đảnh lễ cầu xin ngài uống rượu thuốc, ngài không uống, họ lại mời uống nước cơm, ngài cũng không uống, lại lấy mật hòa với nước mời ngài uống, ngài bảo luật sư kiểm trong luật chế xem, Phật có cho uống hay không? Song các luật sư kiểm duyệt chưa xong thì ngài đã đột ngột thị tịch, hưởng thọ 83 tuổi. Thi thể của ngài được an tángdãy núi phía tây của Lô sơn, xếp đá lại làm tháp, Tạ Linh Vận soạn văn bia.

Niên hiệu Đại Trung thứ 2 (848TL), đời vua Tuyên Tông, thời Hậu Đường, vua phong thụy hiệu cho ngài là Biện Giác Đại Sư. Niên hiệu Thăng Nguyên thứ 3 (939TL), thời Nam Đường, ngài lại được phong thụy hiệu là Giác Chính Đại Sư. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978TL), đời vua Tống Thái Tông, ngài lại được phong thụy hiệuViên Ngộ Đại Sư. Niên hiệu Càn Đạo thứ 2 (1166TL), đời vua Tống Hiếu Tông, thời Nam Tống, ngài lại được phong thụy hiệu là Chính Viên Giác Ngộ Đại Sư. Đức lớn của ngài mãi mãi được người đời sau khâm phục và ngưỡng mộ!

Ngài trứ tác rất nhiều, Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài Huệ Viễn trứ tác hơn 50 bài luận tự, minh, tán, thi, thư, tập hợp lại thành 10 quyển, gọi là Lô sơn tập, cũng tức là toàn tập những trứ tác của ngài để lại cho người đời sau. Lịch đại tam bảo kỷ quyển 7 và Đại Đường nội điển lục quyển 3 liệt kê những tác phẩm của ngài gồm: Đại trí độ luận yếu lược 20 quyển, Vấn đại thừa trung thâm nghĩa thập bát khoa 3 quyển v.v…, tất cả 14 bộ gồm 35 quyển. Trong đó, các bộ luận: Sa-môn bất kính vương giả, Sa-môn đãn phục, Minh báo ứng và Tam báo được ghi trong Hoằng minh tập quyển 5. Các bài Niệm Phật tam-muội thi tập tự, Đại trí luận sao tự v.v…đều được ghi trong các bộ: Xuất tam tạng ký tập, Hoằng minh tập, Quảng hoằng minh tập. Lại nữa bộ Vấn đại thừa trung thâm nghĩa thập bát khoa, còn có tên khác là La-thập pháp sư đại nghĩa, đã được ghi vào trong Tục tạng kinh của Nhật Bản.

Tiết 2: Tư tưởng niệm Phật của Huệ Viễn

Kết xã niệm Phật của ngài Huệ Viễndựa vào pháp niệm Phật tam-muội để thấy Phật, cầu vãng sinh Tây phương. Nhưng bấy giờ kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… còn chưa được dịch ra, vì thế tư tưởng niệm Phật của ngài đích thực là dựa vào kinh Bát-chu tam-muội. Y theo bài tựa Niệm Phật tam-muội thi tập của ngài soạn (trong Quảng hoằng minh tập quyển 30) có ghi: Tam-muội là gì? Nghĩa là thiền tư chuyên nhất, ý tưởng tịch tĩnh. Thiền tư chuyên nhất là tâm chuyên nhất không tán loạn; ý tưởng tịch tĩnh là khí rỗng, thần sáng; khí rỗng thì biết điềm tĩnh để quán chiếu; thần sáng thì không chỗ tối nào mà không thấu suốt. Lại nữa, các tam-muội, tên của nó rất nhiều, công cao, dễ vào thì niệm Phậtđứng đầu. Vì sao? Vì nó rất huyền diệu, rất vắng lặng, tôn xưng đức hiệuNhư Lai, thể thần hợp biến, cảm ứng vô cùng. Cho nên khiến cho người nhập vào định này thầm quên tri kiến, ngay nơi sở duyênquán chiếu, trí sáng thì quán chiếu nội tâm và vạn tượng từ đó sinh ra, chẳng phải chỗ của tai nghe mắt thấy nhận biết được. Đây chính là nói nhất tâm chuyên niệm, ngăn chặn các ý tưởng khác, được đích thân thấy cảnh giới Phật.

Lại nữa, bài văn phát thệ của Bạch Liên xã do Lưu Di Dân (được ghi lại trong Xuất tam tạng ký tập quyển 15) viết: “Thần có thể giao cảm nhưng không thể dùng dấu tích để cầu. Hễ có chúng sinh cần cảm thì thầm ứng gần gũi trong gang tấc; nếu cầu mà không có Phật thì mờ mịt”. Đây là nói dùng Phật làm đối tượng để quán tưởng thì dễ dàng giao cảm, nhưng nếu không có Phật làm đối tượng để cầu thì không biết đâu là bờ bến, mờ mịt nên tam-muội khó thành tựu. Điều này cũng chính là nói về công cao, dễ tiến của Niệm Phật tam-muội. Lại nữa, trong lá thư của ngài Huệ Viễn gửi ẩn sĩ Lưu Di Dân v.v… (được ghi lại trong Quảng hoằng minh tập quyển 27) có viết: “Lưu Di Dân siêng năng, chí thành, nghiêm trì cấm giới, chuyên tâm niệm Phật, tọa thiền, mới được nửa năm, trong định ông đã thấy được Phật, đang đi trên đường, ông thấy Phật hiện ở trong hư không, ánh sáng chiếu soi vàng rực cả trời đất”. Lưu Di Dân v.v… đắc Niệm Phật tam-muội, thường được thấy Phật. Có thể biết Kết xã niệm PhậtLô sơn, là dựa theo kinh Bát-chu tam-muội, vì mong muốn hiện đời được thấy Phật.

Trong quyển La-thập pháp sư đại nghĩa có ghi: Ngài Huệ Viễn đem đức Phật mà mình đã thấy trong định để chất vấn ngài La-thập. Ngài La-thập đã giải đáp những nghi vấn cho ngài. Ngài Huệ Viễn hỏi:

Tam-muội thấy Phật trên không trung, trong kinh Bát-chu tam-muội, Phật thường dẫn mộng để làm thí dụ, như mộng thấy mình đi đến nước khác hội đàm với người, nhưng mộng là cảnh giới của phàm phu không thật, hoặc khởi nghi lại không hiểu đều là từ nơi chính mình mà sinh ra. Nhưng kinh ấy nói: y theo Niệm Phật tam-muội, gặp Phật hỏi pháp, cắt đứt lưới nghi cho mình. Nếu Phật này giống như Phật được thấy trong mộng thì chỉ là do ta nghĩ tưởng mà có, thì chẳng qua Phật trong tưởng tượng mà thôi, cho nên Phật này không thể vì chúng ta dứt trừ được lưới nghi. Trái lại, nếu bên trong thật sự cảm khiến cho Phật bên ngoài ứng thì không được dùng mộng để thí dụ. Kinh này nói nương nơi ba việc: trì giới thanh tịnh, sức công đức của hành giả, sức uy thần của Phật mà đắc định. Nói sức uy thần của Phật là chỉ cho Phật trong định hay là Phật từ bên ngoài đến? Nếu là Phật trong định hay là do tưởng tượng của ta lập nên, sức uy thần này cuối cùng chẳng qua ở nơi ta mà có thì là Phật ngoài định, là thánh nhân hiện ra trong mộng, không nên lấy mộng làm dụ.

Ngài La-thập đáp: Thấy Phật có rất nhiều cách, hoặc tự mình đắc thiên nhãn, nhờ thiên nhãn thấy Phật; hoặc dùng thần lực bay đến chỗ mười phương Phật, gặp Phật hỏi pháp, cắt đứt lưới nghi; hoặc chưa li dục, chưa được thần thông thường niệm Phật A-di-đà v.v… hiện tại thấy Phật, tâm trụ một chỗ liền thấy được Phật, thưa hỏi chỗ nghi. Nhiếp tâm một chỗ là căn bản của sự cầu Phật đạo, nhưng vì người không tin, không biết thực hành pháp thiền định thì cho là chưa đắc thần thông, có thể nào ở xa mà gặp được chư Phật? Cho nên kinh này dùng mộng để làm thí dụ, vì sức của mộng tuy là việc đã qua, nhưng có thể đến được, có thể thấy được. Thực hành Bát-chu tam-muội cũng lại như vậy, năng lực của định này nên tuy ở xa nhưng vẫn thấy được chư Phật ở phương khác. Trong định thấy Phật tuy do ức tưởng phân biệt, nhưng cảnh giới đã thấy kia cũng chẳng phải hư vọng. Vì sao? Các kinh của Phật Thích-ca đều nói thân tướng đầy đủ của Phật A-di-đà, đây là lời thành thật của Như Lai. Lại nữa, trong kinh Bát-chu, Đức Phật thường dạy, nên niệm Phật A-di-đà ở Tây phương. Không những như thế mà thân của đức Phật có tướng quyết định, tức là do ức tưởng phân biệt tạo ra thì gọi là hư vọng. Nhưng kinh nói thân chư Phật đều do các duyên sinh, không có tự tính, rốt ráo vắng lặng như mộng, như hóa. Nếu như thế thì như nói trong khi đi thấy được thân Phật, không nên cho đó là hư vọng; nếu hư vọng thì tất cả đều là hư vọng. Kinh Bát-chu tam-muội này nói mộng để thí dụ.

Ngài Huệ Viễn cho mộng là hư vọng, Đức Phật được thấy trong định cũng là hư vọng, tức lấy cái mà trong luận Duy thức gọi là Độc ảnh cảnh rồi sinh ra hoài nghi.

Ngài La-thập nói mộng chẳng qua là nói để thí dụ mà thôi, Đức Phật trong định đều chẳng phải như sự hư vọng của cảnh mộng, chính là do ở định lực của tam-muội nên ở xa thấy được Phật A-di-đà hiện đang ở Tây phương, có thể dùng cái mà Duy Thức gọi là đới chất cảnh thêm vào để giải thích. Niệm Phật tam-muội thi tập tự của ngài Huệ Viễn ghi: “Nó rất huyền diệu, rất vắng lặng, tôn xưng đức hiệuNhư Lai, thể thần hợp biến, cảm ứng vô cùng. Cho nên khiến cho người nhập định này thầm quên tri kiến, ngay nơi sở duyên mà quán chiếu” thì thuyết chủ trương Như Lai là từ bên ngoài đến, lẽ ra phải khiến cho hành giả có thể được thấy được thân Phật, chúng ta nên biết ý này là thuyết của ngài La-thập.

Tiết 3: Kết chúng của Liên xã và môn hạ của Huệ Viễn

Sự tranh đoạt ngôi vị tại Trường An ở phương bắc cứ liên miên xảy ra, chiến tranh hầu như không dứt. Trái lại, ở phương nam đại khái còn giữ được bình yên, đặc biệtLô sơn vẫn giữ được thanh tịnhtôn nghiêm, thật là cảnh thần tiên xuất thế, bậc vĩ nhân Huệ Viễn cư trú ở đây và làm hưng thịnh đạo pháp. Bấy giờ, các kẻ sĩ thích sống ẩn dật không hẹn mà từ bốn phương kéo đến, người tới lui vào khoảng ba nghìn. Trong đó, kết chúng của Liên xã thì có một trăm hai mươi ba người. Căn cứ bài văn Thệ nguyện của Lưu Di Dân viết thì những người nổi tiếng ấy được ghi ở trong Xuất tam tạng ký tập quyển 15 có bốn vị đó là: Lưu Di DânBành Thành (châu Từ, tỉnh Giang Tô), Chu Tục ChiNhạn Môn (huyện Đại, tỉnh Sơn Tây), Tất Dĩnh Chi ở Tân Thái (huyện Tân Thái, tỉnh Hà Nam), Tông Bính ở Nam Dương (huyện Nam Dương, tỉnh Hà Nam). Lương cao tăng truyện quyển 6, ngoài bốn vị trên còn ghi thêm ba vị là Lôi Thứ Tông, Trương Lai Dân và Quí Thạc ở Dự Chương (huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây). Nhưng trong luận Niệm Phật tam-muội bảo vương của ngài Phi Tích liệt kê có các vị Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Tông Bính, Trương Dã, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục Chi, Tạ Linh Vận, Khuyết Công Tắc. Trong Đông lâm thập bát cao hiền truyện liệt kê 18 vị: Huệ Viễn, Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Đạo Sinh, Đàm Thuận, Tăng Duệ (lầm lẫn Huệ Duệ), Đàm Hằng, Đạo Bính, Đàm Sằn, Đạo Kính, Phật-đà-da-xá, Phật-đà-bạt-đà-la, Lưu Trình Chi, Trương Dã, Chu Tục Chi, Trương Thuyên, Tông Bính, Lôi Thứ Tông. Trong Phật tổ thống ký quyển 26 liệt kê ngoài 18 vị hiền nhân trên, còn ghi Liên xã có một trăm hai mươi ba người như: Đàm Dực, Đàm Ung, Tăng Tế, Huệ Kính, Pháp An, Pháp Tịnh, (năm người dưới đây thấy ghi trong Đông lâm truyện) Pháp Lĩnh, Huệ Bảo, Huệ Yếu, Tăng Triệt, Huệ Nhiên, (hai người dưới đây thấy ghi trong Lô sơn tập) Đàm Uy, Đạo Hoằng, (hai người dưới đây thấy ghi trong Trì sư truyện) Đàm Lan, Pháp Nghiệp, (hai người này và ba người sau, thấy ghi trong Bạt-đà-la truyện) Huệ Nghĩa, Huệ Quán, Đàm Quả, (thấy ghi trong Ung sư truyện) Nguyên Bật, (thấy ghi trong Tế sư truyện) Tăng Quang, (người này và bốn người sau thấy ghi trong Cung sư truyện) Muội Kham, Muội Lan, Khuyết Công Tắc, Tất Huệ Chi, (thấy ghi trong Lưu truyện) Mạnh Hoài Ngọc, (mười một người dưới đây thấy ghi trong Lô sơn tập) Vương Kiều Chi, Đoạn Ẩn, Mao Tu Chi, Đoạn Úy, Vương Mục Dạ, Hà Hiếu Chi, Phạm Duyệt Chi, Trương Văn Dật, Mạnh Thường Thị, (hai người sau đây thất lạc tên) Mạnh Tư Mã, Lục Tu Tĩnh, tất cả là ba mươi bảy người. Ngoài ra, còn chưa ghi các cao hiền nhập Liên xã có ba vị Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận và Phạm Ninh, vì những vị này đều là môn nhân của Huệ Viễn, hoặc chỉ liệt kê lẫn lộn, vì đương thời chúng lai vãng đến Lô sơn rất ít người không có quan hệ với kết chúng Liên xã.

Lại nữa, trong Đông lâm thập bát cao hiền truyện tự thuật thêm: Trong Lương cao tăng truyện quyển 6 có ghi: Đương thời, Huệ Vĩnh ở chùa Tây Lâm, Lô sơn, kết bạn với Huệ Viễn, ngài nghiêm khắc tu hành khổ hạnh, nguyện cầu sinh Tây phương. Huệ Trì là em của Huệ Viễn, đồng nguyện cầu sinh Tây Phương, nhưng vào niên hiệu Long An thứ 3 (399TL), Huệ Trì rời Lô sơn, đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Nguyên Hưng nguyên niên (402TL) ngài chưa gia nhập kết nghĩa giao thề Liên xã. Đạo SinhHuệ Duệ, căn cứ Xuất tam tạng ký tập quyển 15, Lương cao tăng truyện quyển 7 v.v… ghi: hai vị tuy vào Lô sơn nhưng chưa được truyền pháp cầu sinh Tịnh Độ.

Ngài Đàm Thuận, Đạo Tổ truyện trong Lương cao tăng truyện quyển 6 có đề cập: Ngài vốn là người ở Hoàng Long, lúc nhỏ theo học với ngài La-thập, về sau lại thờ ngài Huệ Viễn. Sau đó, ngài dời đến chùa Trúc LâmGiang Lăng (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc). Đông lâm thập bát cao hiền truyện viết: Niên hiệu Nguyên Gia thứ 2 (425TL), thời Tống, ngài thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi.

Ngài Đàm Hằng, tên được nêu trong mục lục Danh tăng truyện vào đời Lương của Bảo Xướng là ngài Đàm Hằng ở chùa Đông Lâm, Lô sơn, Tầm Dương, thời Tấn. Danh tăng truyện sao của Tông Tính chưa ghi truyện ấy. Theo Đông lâm thập bát cao hiền truyện thì ngài Đàm Hằng là người Hà Đông, xuất gia với ngài Huệ Viễn, thông suốt sách vở nội điểnngoại điển, vào Lô sơn chuyên tu Tịnh Độ. Niên hiệu Nghĩa Hi thứ 14 (418TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi.

Ngài Đạo Bính, theo Đông lâm truyện thì ngài Đạo Bính là người Dĩnh Xuyên (huyện Vũ, tỉnh Hà Nam). Thuở nhỏ, ngài làm đệ tử của ngài Huệ Viễn, thông suốt cả kinh luật và cũng giỏi về học thuyết Lão Trang, thường tu niệm Phật tam-muội. Niên hiệu Nghĩa Hi thứ 14 (418TL), theo lời thỉnh của Thái thú Vương Kiền ở Dự Chương, ngài kế thừa ngài Huệ Viễn trụ trì Lô sơn. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 12 (435TL), thời Tống, ngài thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi. Cho nên biết ngài Đạo Bính là vị trụ trì đời thứ hai của chùa Đông Lâm, Lô sơn.

Ngài Đàm Sằn, tên được nêu trong mục lục Danh tăng truyện là ngài Đàm Sằn ở Lô sơn, Tầm Dương, thời Tống, truyện Đạo Tổ trong Lương cao tăng truyện quyển 6 có ghi: Ngài có phong cách thanh nhã, đầy đủ uy nghi, chú thích kinh Duy-ma và trứ tác Cùng thông luận v.v… Đông lâm truyện ghi: Ngài là người Quảng Lăng (Giang Đô, tỉnh Giang Tô), ngài từng viết Liên xã lục, ghi lại các sự tích vãng sinh. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 17 (404TL), thời Tống, ngài thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi.

Ngài Đạo Kính, theo Lương cao tăng truyện quyển 13 và Đông lâm truyện ghi: Ngài là chắt trai của Tả tướng quân Vương Hy. Lúc nhỏ, ngài làm đệ tử ngài Huệ Viễn, chỉ thụ một giới (bất sát sinh), chuyên tâm niệm Phật, suốt cả ngày đêm. Sau khi, ngài Huệ Viễn viên tịch, ngài vào núi Nhược Tà (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vĩnh Sơ nguyên niên thứ 17 (420TL), thời Tống, ngài thị tịch, hưởng dương 52 tuổi. Quảng hoằng minh tập quyển 23 có ghi lại bài văn tế pháp sư Đạo Kính ở núi Nhược Tà của Trương Sướng viết vào thời Tống

Theo như đoạn trên đã ghi năm vị từ ngài Đàm Thuận trở xuống đều là đệ tử của ngài Huệ Viễn, từng gia nhập kết Liên xã.

Ngài Phật-đà-da-xá (Buddhayaśas), trong Xuất tam tạng ký tập quyển 14, Lương cao tăng truyện quyển 2 có ghi về sự tích của ngài, cuối truyện có ghi ngài vào Lô sơn. Đông lâm truyện ghi: Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 8 (412TL), ngài đến Lô sơn, nhập chúng Liên xã, nhưng e là sai sự thật.

Ngài Phật-đà-bạt-đà-la đến Lô sơn, ngài được Huệ Viễn thỉnh dịch Thiền kinh. Về sau, ở Dương Đô (huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô) ngài dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ v.v… Luận Niệm Phật tam-muội bảo vương quyển trung ghi: Ngài Huệ Viễn từng đến thụ học niệm Phật tam-muội với ngài, nên mối quan hệ của hai người rất thân thiết. Bằng không thì vị tam tạng pháp sư người Ấn Độ này chưa chắc đã tham gia thệ nguyện kết Liên xã.

Tiếp theo nói sơ lược về một trăm hai mươi ba người trong Liên xã.

Ngài Đàm Dực, trong Lương cao tăng truyện quyển 13 có ghi: Ngài là người Dư Hàng (huyện Tiền Đường, phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang), ban đầu ở chùa Lô sơn, ngài tu học với ngài Huệ Viễn. Về sau, ngài thờ ngài La-thập. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 13 (417TL), ngài đến núi Tần Vọng, Cối Kê (huyện Hàng, tỉnh Chiết Giang), kết am tranh, đặt tên là tinh xá Pháp Hoa. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 27, thời Tống (450TL), ngài thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi.

Ngài Đàm Ung, trong mục lục Danh tăng truyện có ghi: Ngài Đàm Ung ở chùa Đông Lâm, Lô sơn, Tầm Dương, thời Tấn. Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài họ Dương, người Quan Trung. Lúc trẻ, ngài làm quan cho nhà Ngụy Tần đến chức Vệ tướng quân, sau xuất gia với ngài Đạo An, nhưng khi nhập Lô sơn thì ngài thờ ngài Huệ Viễn. Nhiều lần được ngài Huệ Viễn sai ngài mang thư đến Trường An cho ngài La-thập, ngài làm người truyền đạt tin tức như thế hơn mười năm. Ngài qua đời ở chùa Trúc Lâm, Kinh Châu (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc).

Ngài Tăng Tế, giữa niên hiệu Thái Nguyên, ngài nhập Lô sơn, thụ học với ngài Huệ Viễn. Khi bị bệnh nặng, ngài chí thành muốn cầu sinh Tây phương, nghĩ tưởng đến Phật A-di-đà. Ngài Huệ Viễn tặng cho ngài một ngọn đuốc, ngài cầm đuốc nương vào đó mà dứt được vọng tưởng. Ban đêm, nhờ chúng tăng tập hợp đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ mà ngài mộng thấy Phật Vô Lượng Thọ.

Những người này đều thờ ngài Huệ Viễn làm thầy, cho nên biết họ từng tham gia kết thệ Liên xã.

Ngài Huệ Cung, theo Đông Lâm truyện thì ngài là người Phong Thành, Dự Chương (huyện Phong Thành, tỉnh Giang Tây). Ngài Huệ Cung cùng với các ngài Tăng Quang, Huệ Kham, Huệ Lan là những người đồng chí hướng tu học. Những vị ấy qua đời trước, lúc lâm chung đều cảm ứng được điềm lạ. Về sau, ngài bị bệnh nên hướng tâm đến An Dưỡng, mong lâm chung được Phật tiếp dẫn.

Ngài Pháp An, Lương cao tăng truyện quyển 6 ghi: Ngài là đệ tử của ngài Huệ Viễn, khéo giữ gìn giới hạnh, giảng nói các kinh và còn tu tập thiền định. Giữa niên hiệu Nghĩa Hy, ngài đến huyện Tân Dương (huyện Kinh Sơn, tỉnh Hồ Bắc) trừ diệt nạn hổ dữ cho dân, nên dân chúng trong huyện sửa đổi miếu thần thành chùa và thỉnh ngài ở đó.

Ngài Pháp Tịnh, Huệ Viễn truyện trong Xuất tam tạng ký tập quyển 15 có đề cập: ngài vâng lời ngài Huệ Viễn đến Tây Vực cầu kinh.

Ngài Pháp Lĩnh, phần Hoa nghiêm kinh kí trong Xuất tam tạng ký tập quyển 9 có ghi: Ngài từ nước Vu-điền đến, có mang theo kinh Hoa nghiêm (bản ba vạn sáu nghìn bài kệ) bằng tiếng Tây Vực. Lại bài tựa Tứ phần luật ghi: Theo truyền thuyết, vào niên hiệu Thái Nguyên thứ 17 (392TL), khi ngài đến nước Vu-điền đã gặp được ngài Phật-đà-da-xá.

Ngài Huệ Bảo, tên của ngài được ghi trong Lương cao tăng truyện.

Ngài Huệ Yếu, được Đạo Tổ truyện trong Lương cao tăng truyện quyển 6 có đề cập: Ngài ở trong núi không có đồng hồ để biết thời gian, ngài tạo 12 đóa hoa sen, đặt trong dòng suối, nhờ dòng nước chảy để xác định 12 thời.

Ngài Tăng Triệt, Cao tăng truyện quyển 7 ghi, ngài theo ngài Huệ Viễn thụ học, lần lượt học các kinh, ngài rất tinh thông bát-nhã. Năm 24 tuổi, ngài giảng Tiểu phẩm bát-nhã. Sau ngài đến Giang Lăng (huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc). Niên hiệu Nguyên Gia thứ 29 (452TL), thời Lưu Tống, ngài thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi.

Sự tích ngài Huệ Nhiên và ngài Đàm Uy thì không rõ. Hai ngài Đạo Hoằng và Đàm Lan là đệ tử của các ngài Huệ Trì. Pháp Nghiệp, Huệ Nghĩa, Huệ Nghiêm, Huệ Quán đều từng tham gia dịch trường của ngài Phật-đà-bạt-đà-la. Trong đó, ngài Huệ Quán từng theo ngài Bạt-đà-la vào Lô sơn, nhưng ngài không có sự tích cầu sinh tịnh độ. Ngài Đàm Quảđệ tử của ngài Đàm Ung. Ngài Nguyên Bật là môn nhân của ngài Tăng Tế. Các ngài Tăng Quang, Huệ Kham, Huệ Lan, Huệ Cung đều là bạn đồng học, hình như họ với ngài Huệ Viễn không có quan hệ trực tiếp. Khuyết Công Tắc đã được thuật lại ở trên, ông mất vào đời Vũ Đế, thời Tây Tấn.

Lục Tu Tĩnh là đạo sĩ, Biện chính luận quyển 6 và Đàm Hiển truyện trong Cao tăng truyện quyển 23 đều có ghi: Vào niên hiệu Đại Bảo thứ 6 (555TL), thời Bắc Tề, ông cùng với ngài Đàm Hiển tranh luận về sự hơn kém giữa Đạo giáoPhật giáo. Hai người này nếu dựa vào cách biệt niên đại thì không có khả năng gia nhập Lô sơn kết xã, do đó có thể sự ghi chép lại trong Đông lâm thập bát cao hiền truyện và Phật tổ thống kỷ về hai người này… là bịa đặt.

Các thành viên của Lô sơn Bạch Liên xã, theo Xuất tam tạng ký tập quyển 15 chỉ nêu tên các vị Lưu Di Dân v.v…, chủ yếu do cư sĩ nhóm họp thành, đệ tử xuất gia của ngài Huệ Viễn gia nhập thì có lẽ tương đối ít. Trong nhóm cư sĩ có:

Lưu Di Dân, theo Đông Lâm truyện ghi: Húy danh của ông là Trình Chi, tự Trọng Tư, thích học thuyết Lão Trang. Khi vào Lô sơn, ông thờ ngài Huệ Viễn làm thầy. Ở trong núi, ông xây riêng một gian phòng, thường niệm Phật, ngồi thiền, nhiều lần cảm được ánh sáng của Phật. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 6 (410TL), thời Tấn, ông qua đời, hưởng dương 59 tuổi. Do ông viết bài văn thệ cho Bạch Liên xã thì có thể biết ông là bậc thượng thủ trong kết chúng. Lại nữa, ông am hiểu nghĩa lí bát-nhã và có giao du với ngài Đạo Sinh v.v…phần Pháp luận mục lục trong Xuất tam tạng ký tập quyển 12, có nói đến hai bài viết của ông là Thích tâm vô nghĩa và thư gửi Trúc Đạo Sinh..

Chu Tục Chi, Tống thư quyển 93 ghi: Ông tự là Đạo Tổ, lúc nhỏ, ông đã thông suốt ngũ kinh và sấm vĩ, dự đoán kết hung. Về sau, ông sống nhàn cư, đọc sách đạo Lão, Kinh Dịch. Khi vào Lô sơn, ông thờ ngài Huệ Viễn làm thầy. Chu Tục Chi, Lưu Di Dân và Đào Uyên Minh được gọi là ba vị ẩn sĩ ở Tầm Dương (phủ Cửu Giang, tỉnh Giang Tây). Đời Vũ Đế, thời Tống, ông nhận chiếu chỉ đến Kiến Khang (phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Tô). Cảnh Bình nguyên niên (423TL), ông qua đời, hưởng dương 47 tuổi.

Tông Bính, cũng thấy ghi trong Tống thư quyển 93: Ông tự là Thiếu Văn, giỏi về cầm thư, tinh thông huyền lý. Khi vào Lô sơn, ông đến ngài Huệ Viễn hỏi về văn nghĩa. Về sau, ở Tam Hồ, tỉnh Giang Lăng. Ông dựng nhà sống nhàn cư, từ chối chiếu chỉ của Vũ Đế. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 20 (443TL), ông qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Hoằng minh tập quyển 2 ghi: Ông có trứ tác quyển Minh Phật luận (còn có nhan đề khác là Thần bất diệt luận). Hoằng minh tập quyển 3 có ghi lại bức thư của ông đáp Hà Thừa Thiên hỏi về Bạch hắc luận.

Lô Thứ Tông, Tống thư quyển 93 ghi: Ông tự là Trọng Luân, thuở nhỏ ông vào Lô sơn thờ ngài Huệ Viễn làm thầy, dốc chí tu học, đặc biệt giỏi về Tam thể, Mao thư. Sau đó, vào niên hiệu Nguyên Gia thứ 15 (438TL), thời Tống, theo yêu cầu của mọi người, ông đến Kiến Khang, vào núi Kê Lung mở trường dạy học và thâu nhận học trò, dạy học. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 25, thời Tống, ông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi.

Trương Dã, Đông Lâm truyện v.v…. ghi: Ông tự là Lai Dân có quan hệ thông gia với Đào Uyên Minh, ông học cả hai ngôn ngữ Hoa, Phạn và rất giỏi về văn chương. Sau đó, ông vào Lô sơn cùng với Lưu Di Dân v.v… đồng tu tịnh nghiệp. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ 14 (418TL), thời Tấn, ông qua đời, hưởng thọ 69 tuổi.

Trương Thuyên tự Quý Thạc là con cháu trong dòng tộc của Trương Dã. Về sau, ông có sự ngộ nhập. Cảnh Bình nguyên niên (423TL), ông qua đời, hưởng thọ 65 tuổi.

Tạ Linh Vận, căn cứ trong Tống thư quyển 67 ghi: Ông là người Dương Hạ, quận Trần (huyện Thái Khang, tỉnh Hà Nam). Ông được phong là Khang Lạc Công, văn chương nổi tiếng một thời. Niên hiệu Nguyên Gia thứ 10 (434TL), ông qua đời, hưởng dương 49 tuổi. Ông từng xin gia nhập Liên xã, vì tâm ông không chuyên nhất nên bị ngài Huệ Viễn từ chối. Về sau, khi ngài Huệ Viễn viên tịch, ông có soạn bài văn bia (được ghi lại trong Phật tổ thống kỷ quyển 26). Quảng hoằng minh tập quyển 15 ghi: Ông có họa nguyên vận bài tụng Vô Lượng Thọ của người em họ tên Huệ Liên. Quảng hoằng minh tập quyển 23 ghi: Tạ Linh Vận soạn điếu văn Lô sơn Huệ Viễn pháp sư, nhưng trong văn nói ngài Huệ Viễn thị tịch vào niên hiệu Nghĩa Hy thứ 13, hưởng thọ 84 tuổi. Nếu đem vấn đề này so với sự ghi chép trong văn bia và Lương cao tăng truyện v.v… thì không hợp. Do đó, sự ghi chép đó đúng hay sai thật sự không biết được. Lại nữa, trong Quảng hoằng minh tập quyển 13 có ghi: có 4 bài thơ Niệm Phật tam-muội của Vương Tề ở Lang Da, được biên tập vào trong Niệm Phật tam-muội thi tập.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 300)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 528)
Từ khi ra đời và truyền bá rộng rãi đến các nước trên thế giới, trong suốt quá trình hoằng dương chánh pháp, hội nhập và phát triển
(Xem: 514)
Sự phát hiện của những pho tượng và văn bia còn lưu lại cho thấy Tịnh Độ xuất hiện ở nước ta vào đời nhà Lý, nhưng đến đời nhà Trần thì mới thật sự phát triển mạnh.
(Xem: 487)
Tịnh độ, hay Phật độ, Phật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra.
(Xem: 555)
Chúng ta muốn tu tập pháp môn Tịnh độ thành công thì sự thành công ấy, phải đặt trên nền tảng của Tịnh giới.
(Xem: 347)
Pháp môn Tịnh độ được xem là một trong những pháp môn tu tập hội đủ hai yếu tố: tha lựctự lực;
(Xem: 468)
Pháp tu Tịnh độ là một trong nhiều pháp môn tu tập thuộc Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 808)
Đạo Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn, trong đó Tịnh Độ tông có tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân sinh.
(Xem: 1162)
Kinh A Di Đà cùng với kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba kinh căn bản làm tông của tông Tịnh Độ
(Xem: 1472)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ kheo theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất.
(Xem: 1194)
Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc. Chánh niệm cần phải được luyện tập.
(Xem: 1115)
Không biết tự bao giờ câu “A Di Đà Phật” trở thành câu cửa miệng cho bất kỳ ai là tín đồ Phật giáo
(Xem: 2319)
“Niệm Phật (S: Buddhānusmrti; P: Buddhānussati): tâm nghĩ nhớ pháp thân Phật hoặc quán tưởng thân tưởng Phật, quán niệm công đức Phật hay miệng xưng danh hiệu Phật”
(Xem: 1520)
Phàm niệm Phật là do tâm khởi. Tâm khởi thiện thì niệm thiện, khởi niệm thiện thì nghiệp báo thiện.
(Xem: 1796)
Khi niệm Phật, người tu hành nên y theo các phương pháp nêu ra sau đây, chọn lấy phương pháp nào thích hợp nhất với căn cơhoàn cảnh mình mà hành trì.
(Xem: 2195)
Hệ thống giáo nghĩa Chân tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của Ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng
(Xem: 1907)
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình.
(Xem: 2620)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 4770)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 2646)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.
(Xem: 6336)
Chúng ta đều cần cầu nguyện đến Phật Vô Lượng Quang A Di Đà [Amitabha] rằng chúng ta sẽ sinh trong cõi Cực Lạc [Dewachen] khi chết.
(Xem: 3267)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay.
(Xem: 3059)
Không những đời sau, hành giả sẽ được sanh về Thế Giới An Lạc mà ngay trong đời này, hành giả sẽ được an lạc, vô úy vì họ đã ...
(Xem: 2913)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử,
(Xem: 3696)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã...
(Xem: 3192)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ,
(Xem: 8106)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 2853)
Điểm thù thắng nhất trong Phật pháp làm cho chúng ta khâm phục đến năm vóc sát đấtPhật pháp chỉ dạy một cá nhân tôi chứ chẳng dạy ai khác, đây là điều tôi hiểu rất rõ ràng.
(Xem: 8534)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 4418)
Làm sao thoát khỏi vòng nghiệp lực, cải đổi vận mạng? Muốn làm chủ nghiệp lực, dĩ nhiên phải Tu, chân thành hướng về Phật, sẽ được sống trong vầng hào quang tịnh khiết.
(Xem: 8163)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6748)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 11235)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 22854)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 5267)
Danh hiệu tuyệt vời của A Di Đà đã thâu tóm trong Ngài đến những vô lượng vô số công phu tu tập. Chính danh hiệu...
(Xem: 11783)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 11408)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 12604)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 34653)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 32815)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22200)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 12539)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 11893)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 10408)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10898)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 11834)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11741)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10962)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10739)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 11418)
Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ yêu cầu chúng ta hai điều mỗi khi trì tụng chú Đại Bi, đó là thành tâm và không mưu cầu những việc bất thiện.
(Xem: 7205)
Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ.
(Xem: 6549)
Chúng ta không thể biểu hiện chức năng như một thành viên của xã hội ngoại trừ chúng ta có một khái niệm nào đó về thiện và ác.
(Xem: 7241)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ.
(Xem: 5739)
Kinh tạng còn ghi lại khá nhiều trường hợp Đức Phật đích thân trợ niệm hoặc dạy các đệ tử đi trợ niệm cho người bệnh hoặc người sắp lâm chung.
(Xem: 6441)
Khi suy nghĩ những nhu cầu tâm linh của người sắp chết, nguyên tắc căn bản là làm bất cứ điều gì bạn có thể làm được để giúp đỡ người chết có tâm bình tĩnh và an lạc, để họ có ý nghĩ tâm linh tích cực nhất.
(Xem: 6033)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độhết sức sâu đậm.
(Xem: 9397)
Phàm người niệm Phật, điểm chánh yếu là giải quyết vấn đề sống chết, chẳng phải lơ láo qua ngày!. Nên nghĩ đến cơn vô thường mau chóng, thời khắc chẳng chờ người,
(Xem: 5919)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 5904)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 5649)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant