Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trích Luận Về Tịnh Độ

11 Tháng Mười Hai 202316:50(Xem: 493)
Trích Luận Về Tịnh Độ
Trích Luận Về Tịnh Độ    

Hạc Lâm
 Điểm Tuyết


sen1

Tịnh độ, hay Phật độPhật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra. Và vì có vô số chư Phật nên cũng sẽ có vô số Tịnh độTịnh độ được xem là hóa thân của một thế giới mới tốt đẹp, là cõi của người tu hànhmuốn được tái sinh về đó.

Trong nhân gian, người ta thường hiểu Tịnh độ là một nơi có vị trí địa lý nhất định. Nhưng thực raTịnh độ là một dạng “tâm thức Giác ngộ”, sẽ không bị ô nhiễm bởi những cấu uế của trần tục; và những phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc… chỉ có tính tượng hình. Tịnh độ cũng chưa phải là mục đích cuối cùng trên con đường tu tập. Trong tinh thầnĐại thừaĐức Phật đặc biệt nói những bộ Kinh cứu cánhnhư: Hoa NghiêmPháp HoaNiết Bàn… ý chỉ nêu rõ: “Những cõi nước do Đức Phật biến hóa, làm phương tiệnđể an ủi chúng sanh những lúc cảm thấy mệt mỏi, chán nản đều gọi đó là cõi Phương tiện, Hóa thành”. Chỉ có Niết bàncủa Phật mới thực sự là Bảo sở mà thôi!

Tịnh độ Đâu Suất của Đức Phật Di Lặc
Tịnh độ không chỉ có một mà được chia làm bốn, gồm: Tịnh độ thiết lập ngay trong tâm mỗi người (Tịnh độ tự tâm); Tịnh độ của các Đức Phật kiến thiết từ Nguyện lực của mình (Tịnh độ Phật quốc); Tịnh độ thiết lập tại nhân gian do sự nỗ lực giáo hóa chúng sanh, tính hóa nhân gian của chư Phật, Bồ-tát, Thánh chúng… (Tịnh độ nhân gian); và cuối cùng là Tịnh độ thiên quốc, cũng chính là cõi Tịnh độ Đâu Suất của Đức Phật Di Lặc.

Trong Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất, có nói về Đức Phật Di Lặc và cõi Tịnh độ Đâu SuấtĐiều kiện để vãng sanh là trước khi lâm chung phải quán tưởng và trì niệm danh hiệucủa Đức Phật Di LặcHành giả sau khi sanh về đây sẽ tiếp tục tu tập cùng Đức Phật Di Lặc và hạ sanh lại cõi Diêm phù đề để tịnh hóa Ta bàkiến thiết Tịnh độ nhân gian.

TỊNH ĐỘ ĐÔNG PHƯƠNG DIỆU HỶ CỦA ĐỨC PHẬT A SÚC BỆ (AKSHOBHYA)
A Súc Bệ, nghĩa là không động, Bất Động Như LaiDanh hiệu này được đề cập trong các Kinh Đại Bát Nhã (Phẩm Kiến Bất Động)Duy Ma Cật (Phẩm Kiến A Súc Phật Quốc)Kinh A Di Đà… Tư tưởng Tịnh độ của Phật A Súc Bệ này bắt nguồn từ các kinh điển nói về Đức Phật này và 39 Đại nguyện của Ngài đã kiến thiết nên cõi Tịnh độ Đông phươngHành giả nếu muốn vãng sanh về thế giới Đông phương Diệu hỷ của Ngài thì phải tu Lục độBát nhã Không quán và trì niệm danh hiệuNgài.

TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Theo nghiên cứu của Yabuki Koiki và Mochizuki Shinkyo, ngoài yếu tố về tính tất yếu trong lịch sửphát triển Phật giáotín ngưỡng A Di Đà xuất hiện theo khuynh hướng tu tập để thoát ly khỏi khổ đau của cõi Ta bà, hầu sanh về một cảnh giới an vui hơn; qua đó, đáp ứng một trào lưu tín ngưỡngvừa mang tính bình dân, vừa có tính thần thoại của đại đa số quần chúng. Là một cõi Tịnh độ được diễn tả rõ nét nhất trong Kinh A Di Đà, nơi đây chỉ toàn an lạc, không có thống khổ, đầy đủ thất bảotrang nghiêmthù thắng. Và trong Kinh Vô Lượng Thọhình tượng Đức Phật A Di Đà là đại biểu cho vô lượng tất cả chư Phật.

Điểm khác biệt ở cõi Tịnh độ Tây phương của Đức Phật A Di Đà so với các cõi Phật khác chính là: Ngoài tự lực của hành giả trì niệm danh hiệu Phật đến chỗ nhất tâm bất loạnKinh Vô Lượng Thọ còn đề cao tha lực của Đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn hành giả vãng sanh một cách tối đa. Trừ những người phạm tội hủy báng Tam bảo và ngũ nghịch ra, thì bất kỳ ai, chỉ cần có niềm tinkiên cố vào Đức Phật A Di Đà đều có thể vãng sanh về cõi nước của Ngài. Ngoài những cõi Tịnh độ nêu trên, còn có nhiều cõi Tịnh độ khác do các Đức Phật tạo thành dành cho hướng nguyện sanh về của từng hành giả.

BÀN VỀ NGUYỆN LỰC TRONG TỊNH ĐỘ
Nguyện: Là một trong những yếu tố đặc trưng của Phật giáo; cộng với Duyên, sẽ giúp cho hành giảđạt được những Quả cao quý. Nguyện cũng là một trong 10 Ba-la-mật (theo Phật giáo Nguyên thủy), gồm: Bố thíTrì giớiTinh tấnKham nhẫnTrí tuệXuất giaChân thậtPhát nguyện, Từ và Xả. Không những chỉ riêng Đức Phật A Di Đà mới có 48 Đại nguyện để kiết thiết nên cõi Tịnh độ Tây phương, mà chư Phật, Bồ tát hay thậm chí là hàng Thanh văn cũng có những sự phát nguyệnkhác nhau của riêng mình trong khi tu hành.

Ba-la-mật được chia thành 3 bậc: (1) Hạphát nguyện Ba-la-mật trong tâm; (2) Trungphát nguyệnBa-la-mật bằng lời nói nơi miệng; (3) Thượngphát nguyện thực hành Ba-la-mật nơi thân. Tương ứng theo đó sẽ có Thanh văn thường, Đại Thanh văn và Thanh văn Thượng thủ là bậc có thể thực hành 10 Ba-la-mật nơi thân ngay trong đời sống hiện tại giống như chư Phật và Bồ tát.

Trong tất cả các Nguyện thì Bồ đề tâm nguyện (nguyện thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) là tối thượng nhất. Trong Buddhavamsa (Phật sử), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải trải qua 3 giai đoạn phát nguyện thực hành Ba-la-mật, cộng với 10 nghìn đại kiếp trái đất mới thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy chúng ta thấy rằng nếu không có Nguyện thì không thể thực hành trọn vẹn Ba-la-mật, mà không thực hành trọn vẹn các pháp Ba-la-mật thì không thể thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nguyện lực: Là năng lựcsức mạnh được phát sanh từ nguyện mà hành giả đã thệ lập. Sức mạnhnày nuôi dưỡng các hạt giống Thiện, tăng trưởng Thiện tâm và giúp hành giả vượt qua được những chướng duyên. Thực hành Ba-la-mật cũng giống như làm việc lớn, việc càng lớn thì chướng duyên, trở ngại càng khó vượt qua, khiến cho hành giả dễ thoái thất tâm Bồ đềNguyện lực chính là sức mạnh phi thường giữ vững Bồ đề tâm, đẩy hành giả tiến thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chỉ có Nguyện lực (sức mạnh vĩ đại nhất) mới có thể chiến thắng được Nghiệp lực (sức mạnh đáng sợ nhất). Sức mạnh của Nguyện giúp cho hành giả từ phẩm vị thấp tiến lên phẩm vị cao, rồi dần tiến đến Thánh vị. Nhờ có Nguyện lực mà hành giả có thể tự do ra vào ba cõiđể độ sanh mà không bị dòng Nghiệp lực cuốn trôi, nhấn chìm vào sanh tử luân hồi.

Bổn nguyện: Tịnh độ có một đặc điểm mà các tông phái khác không có, đó chính là Bổn nguyện tha lực (Nguyện ban sơ). Vì chúng sanh mà phát nguyện trợ giúp, dìu dắt họ. Bổn nguyện sanh ra Tha lựcTha lực đấy sẽ luôn song hành và hỗ trợ cùng Tự lực của chúng sanh trên bước đường tu tập. Một hành giả phải có tấm lòng Đại từ bi và Đại trí tuệ mới có thể tạo nên Bổn nguyện kiên cố, vĩ đại (Đại nguyện).

Quan điểm tu tập Tịnh độ của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ
Ngài Diên Thọ (904-975) xuất thân từ Nho học. Năm 34 tuổi, Ngài xuất gia theo Phật giáo. Năm 961, Ngài được mời về trụ trì chùa Vĩnh Minh, nên có hiệu là Vĩnh Minh Diên Thọ. Ngài là bậc hành trì nghiêm mật và làm mô phạm cho việc phụng sự Phật pháp. Ngài là Tổ thứ 6 của Tịnh độ tôngTrung Hoa và được xem như hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Nhiều tác phẩm lớn của Ngài sưu tập hay tự biên soạn đều có chủ đích đề cao tư tưởng Thiền – Tịnh song tu.

Ngài cho rằng: “Vạn sự tịnh nhiễm vốn bắt nguồn từ Tâm”. Tâm có hai phương diện Thể và Dụng: Thể là tâm chân thật, thanh tịnh, là cửa chơn như; Dụng là tâm duyên lự, lúc tịnh, lúc nhiễm, vọng động, là cửa sanh diệt. Thể và Dụng tuy hai mà một, không thể tách rời, đều trực thuộc tâm. “Tâm này bình đẳng thì pháp giới thản nhiên, tâm này biến dịch thì ngàn sai tranh khởi”Thành Phật hay thành chúng sanh cũng đều do tâm. Cho nên, Tịnh độ tại tâm, mà Địa ngục cũng từ tâm khởi tạo. Chính quan điểm này của Ngài mà mở ra cánh cửa cho sự hợp nhất Thiền – Tịnh song tu.

Tư tưởng Tịnh độ của ngài Long Thọ (Nargajuna)
Ngài Long Thọ được xem là nhà tiên phong trong các luận sư Phật giáo Ấn Độ, đã đưa ra những kiến giải về tư tưởng Tịnh độ. Những trước tác hiện còn của Ngài liên hệ đến tư tưởng Tịnh độ chủ yếu dựa vào hai bộ Kinh chính là Bát Nhã và Pháp HoaTác phẩm Đại Trí Độ luận của Ngài có lẽ là bộ luận diễn giải về các pháp Ba-la-mật của Phật giáo Đại thừa đầy đủ và rõ ràng nhất. Theo đó, các pháp Tam muội khác chỉ dứt trừ được một phần phiền não và không đoạn trừ nghiệp đời trước; còn Niệm Phật Tam muội thì có thể đoạn trừ vô số phiền nãotiêu trừ những tội chướng trong quá khứ, có vô số công đức và cứu độ vô số chúng sanh.

Có câu hỏi rằng: Tại sao phải cầu vãng sanh về Tịnh độ?

Ngài Long Thọ giải thích như sau: Năng lực và trí tuệ của chúng sanh cõi Ta bà giống như chiếc bè mục trên biển, ấm nước sôi để giữa băng tuyết. Bè chưa đến được bờ đã bị tan rã, bị nhấn chìm trong biển, nước chưa kịp dùng đã bị băng làm cho nguội lạnh. Chúng sanh cõi trần cũng vậy, sợ rằng trước khi đạt được bất thoái đã bị nhấm chìm trong vũng lầy sanh tử. Chỉ có cầu sanh về Tịnh độ, thân cận chư Phật, đầy đủ thiện căn, trau dồi nhân duyênphước đức, tránh xa các ác, bất thiệnpháp mới có thể mau chóng tu tập thành tựu.

Để được thân cận chư Phật, phải thực hành hai hạnh: (1) Sanh nhẫn (nhẫn người): Thực hành tâm từ sẽ thành tựu sanh nhẫntăng trưởng phước đứcđối trị được sự sanh khởi của các tâm ác, bất thiện. (2) Pháp nhẫn (nhẫn hoàn cảnh): Thực hành pháp nhẫn sẽ thấy được tính duyên sinh, tương quan tương duyên của vạn pháp, nên có thể phá trừ vô minhtăng trưởng trí tuệ.

Ý nghĩa vãng sanh: Vãng sanh không phải thoát khỏi nơi này và tìm một nơi khác tốt hơn sanh về để hưởng thụ. Vãng sanh chính là buông bỏ mọi chấp thủvượt qua Nhị nguyên đối đãi, sống với sự bình đẳng không phân biệt, sống với trí vô ngãvô lậu, mà vô lậu chính là Ba-la-mật. Cho nên, Tịnh độ không phải một nơi để chúng sanh cầu xin được về đó, mà phải dùng chính niềm tin kiên cố và trí tuệ vô lậuvô phân biệt của mình để tự bước vào.

Trong chú giải của Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, ngài Long Thọ có trình bày hai pháp: Dị Hành (dễ thực hành) và Nan Hành (khó thực hành) để góp thêm kiến giải về pháp môn Tịnh độ. Pháp Dị Hành sẽ giúp hành giả chứng được bất thoái nhờ trì niệm danh hiệu Phật và Bồ tát sáu thời, kết hợp với 4 pháp Sám hốiKhuyến thỉnhTùy hỷ và Hồi hướng để khiến cho nghiệp giảm, phước tăng và nhờ tha lực của chư Phật hỗ trợ, mau được thành tựu. Bên cạnh đó, Ngài còn đề cập đến ba bậc vãng sanh (Thượng, Trung và Hạ) để nói lên ý nghĩa đây là con đường dễ thực hành cho mọi căn cơ của chúng sanh.

Qua hai tác phẩm Đại Trí Độ và Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, ngài Long Thọ đã đề cập đến Tịnh độ Tây phương từ quan điểm pháp hànhtôn chỉ cũng như quan điểm xuyên suốt trong hành trạng và sự nghiệp của Ngài chính là Trung đạo Duyên khởi. Từ đây góp phần khẳng định về niên đại và vai tròcủa các bản Kinh Tịnh độ trong lịch sử phát triển tín ngưỡng và tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ cho đến ngày nay.

Những đặc tính của Tịnh độ
Trong Kinh A Di Đà và Vô Lượng Thọ có đề cập đến 6 đặc tính của Tịnh độ như sau:

Thứ nhất là Cực lạcCực lạc là niềm vui cao tột. Xét về đặc tính này, Tịnh độ và Cực lạc đồng nghĩa với nhau. Cho nên, Tịnh độ là sự vắng lặng, mà không có niềm vui nào cao tột hơn khi đã đoạn trừ được mọi khổ đau, đạt được sự an tịnh trong tâm hồn.

Thứ hai là trang nghiêmthanh tịnh: Chỉ cho Chánh báo là sự thanh tịnh và trang nghiêm của con người từ ăn mặc, nói năng, cư xử đều vắng mặt tham, sân, si, giãi đãi…. Và Y báo là sự thanh tịnhvà trang nghiêm của cảnh giớithể hiện ở chỗ: Xã hội thì phồn thịnhsung túcbình anThiên nhiên, cảnh vật thì bằng phẳng, ngay thẳng, sang trọngđẹp đẽ, thanh khiết…

Thứ ba là luôn hướng thượng: Nhờ gần gũi chư Phật, hiền Thánh mà được thuận duyên tu tậphướng đến tối thượng thừaTịnh độ không phải cảnh giới sau khi sanh về chỉ lo hưởng thụ phước đức của mình, mà chính là nơi tạo thuận duyên cho sự tu tập của hành giả. Một hình ảnh rất đặc biệt của cõi Tịnh độ chính là tòa sen to nhỏ, màu sắc, ánh sáng khác nhau dưới chân vị hành giảthể hiện cho công phu tu tập sâu cạn của vị ấy.

Thứ tư là hướng đến một xã hội đạo đứcluân lýthánh thiệnTịnh độ như một hình mẫu lý tưởngđể xây dựng một đời sống phạm hạnh thanh tịnh qua việc đoạn tận các ái, thủ, vô minhgiải thoáttất cả các lậu hoặcChúng sanh sanh về Tịnh độ đều là những hành giả đi trên con đường của Giới, Định, Tuệ, được quả vị bất thoái chuyểnA La HánBồ tát, thậm chí có vị là Nhất sanh bổ xứthành Phật. Điều này còn thể hiện tính nhất quán trong lộ trình tu tập và chứng ngộ của vị hành giảPhật giáo.

Thứ năm là âm thanh lưu xuất từ tự tánh của chúng sanh và chư Phật: Âm thanh này chính là tự tánh vô thanh, phát xuất từ tự tánh niệm Phật của vị hành giả đã thuần thục trên con đường giải thoát và âm thanh của chư Phật thuyết giảng chánh phápÂm thanh này có sức chuyển hóa mạnh mẽ đối với tự thân hành giả và cả những chúng sanh khác, vì nó lưu xuất từ trong bản thể thanh tịnhvắng lặngÂm thanh này thể hiện qua những hình ảnh chim thuyết pháptiếng gió thổi qua những hàng cây báu… ở cõi Tịnh độ được ghi lại trong Kinh A Di Đà.

Thứ sáu là thế giới của Nguyện lực: Nếu cõi Ta bà là thế giới của Nghiệp lực, thì cõi Tịnh độ là thế giới của Nguyện lực thù thắng. Chính nguyện lực mạnh mẽ này sẽ giúp hành giả sắp lâm chungđược đới nghiệp vãng sanh. Đới nghiệp giống như một khối đá dù lớn mà được chiếc bè chở đi thì không thể nào chìm xuống nước và dần dần sẽ bào mòn hết nhờ năng lực tu tập của hành giả.

Thông qua sáu đặc tính này, chúng ta như thấy cõi Tịnh độ đang hiển hiện trước mắt mình. Giống như hình ảnh chiếc bè vững chắc cứu vớt chúng sanh, dù đang mang khối nghiệp nặng trĩu trên vai vẫn có thể thuận lợi tu tậpvượt qua biển sanh tử, đến được bến bờ của sự vô lậu, an vui, giải thoát.

Pháp môn Tịnh độ ở tại Việt Nam ta đã có một lịch sử lâu dài, ít tách rời khỏi các pháp môn khác mà thường hòa quyện cùng với Thiền tông và Mật tông. Sự không tách biệt độc lập này có lẽ do đặc tính của dân tộc ta. Trong truyền thống của Phật giáo Việt Nam, với sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng Thiền, dẫu là Thiền sư, nhưng trong việc thực hành đời sống tâm linh vẫn trì tụng các thần chú và niệm danh hiệu Phật. Đến naypháp môn Tịnh độ hầu như phổ biến khắp đất nước ta, ngày càng ăn sâu và bén rễ trong lòng dân tộc, luôn đồng hành và tương trợ cùng với Thiền pháp và Mật pháp để tạo thành một Phật giáo đầy màu sắc của tính tùy duyênhòa hợp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 46275)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21090)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23472)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18959)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15447)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46731)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15341)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42693)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13134)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33311)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51338)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6642)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13148)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29424)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34452)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23666)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30443)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30117)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32762)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10602)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58773)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14232)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11409)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31054)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25360)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22830)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17715)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42244)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11347)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27418)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17818)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12295)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29218)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22799)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17375)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11914)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26383)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13228)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28996)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18813)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46480)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13871)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30037)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22890)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12564)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37342)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 37013)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant