Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trích Luận Về Tịnh Độ

11 Tháng Mười Hai 202316:50(Xem: 495)
Trích Luận Về Tịnh Độ
Trích Luận Về Tịnh Độ    

Hạc Lâm
 Điểm Tuyết


sen1

Tịnh độ, hay Phật độPhật quốc được hiểu là một cõi thanh tịnh thuộc về một vị Phật đã tạo ra. Và vì có vô số chư Phật nên cũng sẽ có vô số Tịnh độTịnh độ được xem là hóa thân của một thế giới mới tốt đẹp, là cõi của người tu hànhmuốn được tái sinh về đó.

Trong nhân gian, người ta thường hiểu Tịnh độ là một nơi có vị trí địa lý nhất định. Nhưng thực raTịnh độ là một dạng “tâm thức Giác ngộ”, sẽ không bị ô nhiễm bởi những cấu uế của trần tục; và những phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc… chỉ có tính tượng hình. Tịnh độ cũng chưa phải là mục đích cuối cùng trên con đường tu tập. Trong tinh thầnĐại thừaĐức Phật đặc biệt nói những bộ Kinh cứu cánhnhư: Hoa NghiêmPháp HoaNiết Bàn… ý chỉ nêu rõ: “Những cõi nước do Đức Phật biến hóa, làm phương tiệnđể an ủi chúng sanh những lúc cảm thấy mệt mỏi, chán nản đều gọi đó là cõi Phương tiện, Hóa thành”. Chỉ có Niết bàncủa Phật mới thực sự là Bảo sở mà thôi!

Tịnh độ Đâu Suất của Đức Phật Di Lặc
Tịnh độ không chỉ có một mà được chia làm bốn, gồm: Tịnh độ thiết lập ngay trong tâm mỗi người (Tịnh độ tự tâm); Tịnh độ của các Đức Phật kiến thiết từ Nguyện lực của mình (Tịnh độ Phật quốc); Tịnh độ thiết lập tại nhân gian do sự nỗ lực giáo hóa chúng sanh, tính hóa nhân gian của chư Phật, Bồ-tát, Thánh chúng… (Tịnh độ nhân gian); và cuối cùng là Tịnh độ thiên quốc, cũng chính là cõi Tịnh độ Đâu Suất của Đức Phật Di Lặc.

Trong Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất, có nói về Đức Phật Di Lặc và cõi Tịnh độ Đâu SuấtĐiều kiện để vãng sanh là trước khi lâm chung phải quán tưởng và trì niệm danh hiệucủa Đức Phật Di LặcHành giả sau khi sanh về đây sẽ tiếp tục tu tập cùng Đức Phật Di Lặc và hạ sanh lại cõi Diêm phù đề để tịnh hóa Ta bàkiến thiết Tịnh độ nhân gian.

TỊNH ĐỘ ĐÔNG PHƯƠNG DIỆU HỶ CỦA ĐỨC PHẬT A SÚC BỆ (AKSHOBHYA)
A Súc Bệ, nghĩa là không động, Bất Động Như LaiDanh hiệu này được đề cập trong các Kinh Đại Bát Nhã (Phẩm Kiến Bất Động)Duy Ma Cật (Phẩm Kiến A Súc Phật Quốc)Kinh A Di Đà… Tư tưởng Tịnh độ của Phật A Súc Bệ này bắt nguồn từ các kinh điển nói về Đức Phật này và 39 Đại nguyện của Ngài đã kiến thiết nên cõi Tịnh độ Đông phươngHành giả nếu muốn vãng sanh về thế giới Đông phương Diệu hỷ của Ngài thì phải tu Lục độBát nhã Không quán và trì niệm danh hiệuNgài.

TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Theo nghiên cứu của Yabuki Koiki và Mochizuki Shinkyo, ngoài yếu tố về tính tất yếu trong lịch sửphát triển Phật giáotín ngưỡng A Di Đà xuất hiện theo khuynh hướng tu tập để thoát ly khỏi khổ đau của cõi Ta bà, hầu sanh về một cảnh giới an vui hơn; qua đó, đáp ứng một trào lưu tín ngưỡngvừa mang tính bình dân, vừa có tính thần thoại của đại đa số quần chúng. Là một cõi Tịnh độ được diễn tả rõ nét nhất trong Kinh A Di Đà, nơi đây chỉ toàn an lạc, không có thống khổ, đầy đủ thất bảotrang nghiêmthù thắng. Và trong Kinh Vô Lượng Thọhình tượng Đức Phật A Di Đà là đại biểu cho vô lượng tất cả chư Phật.

Điểm khác biệt ở cõi Tịnh độ Tây phương của Đức Phật A Di Đà so với các cõi Phật khác chính là: Ngoài tự lực của hành giả trì niệm danh hiệu Phật đến chỗ nhất tâm bất loạnKinh Vô Lượng Thọ còn đề cao tha lực của Đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn hành giả vãng sanh một cách tối đa. Trừ những người phạm tội hủy báng Tam bảo và ngũ nghịch ra, thì bất kỳ ai, chỉ cần có niềm tinkiên cố vào Đức Phật A Di Đà đều có thể vãng sanh về cõi nước của Ngài. Ngoài những cõi Tịnh độ nêu trên, còn có nhiều cõi Tịnh độ khác do các Đức Phật tạo thành dành cho hướng nguyện sanh về của từng hành giả.

BÀN VỀ NGUYỆN LỰC TRONG TỊNH ĐỘ
Nguyện: Là một trong những yếu tố đặc trưng của Phật giáo; cộng với Duyên, sẽ giúp cho hành giảđạt được những Quả cao quý. Nguyện cũng là một trong 10 Ba-la-mật (theo Phật giáo Nguyên thủy), gồm: Bố thíTrì giớiTinh tấnKham nhẫnTrí tuệXuất giaChân thậtPhát nguyện, Từ và Xả. Không những chỉ riêng Đức Phật A Di Đà mới có 48 Đại nguyện để kiết thiết nên cõi Tịnh độ Tây phương, mà chư Phật, Bồ tát hay thậm chí là hàng Thanh văn cũng có những sự phát nguyệnkhác nhau của riêng mình trong khi tu hành.

Ba-la-mật được chia thành 3 bậc: (1) Hạphát nguyện Ba-la-mật trong tâm; (2) Trungphát nguyệnBa-la-mật bằng lời nói nơi miệng; (3) Thượngphát nguyện thực hành Ba-la-mật nơi thân. Tương ứng theo đó sẽ có Thanh văn thường, Đại Thanh văn và Thanh văn Thượng thủ là bậc có thể thực hành 10 Ba-la-mật nơi thân ngay trong đời sống hiện tại giống như chư Phật và Bồ tát.

Trong tất cả các Nguyện thì Bồ đề tâm nguyện (nguyện thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) là tối thượng nhất. Trong Buddhavamsa (Phật sử), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng phải trải qua 3 giai đoạn phát nguyện thực hành Ba-la-mật, cộng với 10 nghìn đại kiếp trái đất mới thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy chúng ta thấy rằng nếu không có Nguyện thì không thể thực hành trọn vẹn Ba-la-mật, mà không thực hành trọn vẹn các pháp Ba-la-mật thì không thể thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nguyện lực: Là năng lựcsức mạnh được phát sanh từ nguyện mà hành giả đã thệ lập. Sức mạnhnày nuôi dưỡng các hạt giống Thiện, tăng trưởng Thiện tâm và giúp hành giả vượt qua được những chướng duyên. Thực hành Ba-la-mật cũng giống như làm việc lớn, việc càng lớn thì chướng duyên, trở ngại càng khó vượt qua, khiến cho hành giả dễ thoái thất tâm Bồ đềNguyện lực chính là sức mạnh phi thường giữ vững Bồ đề tâm, đẩy hành giả tiến thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chỉ có Nguyện lực (sức mạnh vĩ đại nhất) mới có thể chiến thắng được Nghiệp lực (sức mạnh đáng sợ nhất). Sức mạnh của Nguyện giúp cho hành giả từ phẩm vị thấp tiến lên phẩm vị cao, rồi dần tiến đến Thánh vị. Nhờ có Nguyện lực mà hành giả có thể tự do ra vào ba cõiđể độ sanh mà không bị dòng Nghiệp lực cuốn trôi, nhấn chìm vào sanh tử luân hồi.

Bổn nguyện: Tịnh độ có một đặc điểm mà các tông phái khác không có, đó chính là Bổn nguyện tha lực (Nguyện ban sơ). Vì chúng sanh mà phát nguyện trợ giúp, dìu dắt họ. Bổn nguyện sanh ra Tha lựcTha lực đấy sẽ luôn song hành và hỗ trợ cùng Tự lực của chúng sanh trên bước đường tu tập. Một hành giả phải có tấm lòng Đại từ bi và Đại trí tuệ mới có thể tạo nên Bổn nguyện kiên cố, vĩ đại (Đại nguyện).

Quan điểm tu tập Tịnh độ của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ
Ngài Diên Thọ (904-975) xuất thân từ Nho học. Năm 34 tuổi, Ngài xuất gia theo Phật giáo. Năm 961, Ngài được mời về trụ trì chùa Vĩnh Minh, nên có hiệu là Vĩnh Minh Diên Thọ. Ngài là bậc hành trì nghiêm mật và làm mô phạm cho việc phụng sự Phật pháp. Ngài là Tổ thứ 6 của Tịnh độ tôngTrung Hoa và được xem như hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Nhiều tác phẩm lớn của Ngài sưu tập hay tự biên soạn đều có chủ đích đề cao tư tưởng Thiền – Tịnh song tu.

Ngài cho rằng: “Vạn sự tịnh nhiễm vốn bắt nguồn từ Tâm”. Tâm có hai phương diện Thể và Dụng: Thể là tâm chân thật, thanh tịnh, là cửa chơn như; Dụng là tâm duyên lự, lúc tịnh, lúc nhiễm, vọng động, là cửa sanh diệt. Thể và Dụng tuy hai mà một, không thể tách rời, đều trực thuộc tâm. “Tâm này bình đẳng thì pháp giới thản nhiên, tâm này biến dịch thì ngàn sai tranh khởi”Thành Phật hay thành chúng sanh cũng đều do tâm. Cho nên, Tịnh độ tại tâm, mà Địa ngục cũng từ tâm khởi tạo. Chính quan điểm này của Ngài mà mở ra cánh cửa cho sự hợp nhất Thiền – Tịnh song tu.

Tư tưởng Tịnh độ của ngài Long Thọ (Nargajuna)
Ngài Long Thọ được xem là nhà tiên phong trong các luận sư Phật giáo Ấn Độ, đã đưa ra những kiến giải về tư tưởng Tịnh độ. Những trước tác hiện còn của Ngài liên hệ đến tư tưởng Tịnh độ chủ yếu dựa vào hai bộ Kinh chính là Bát Nhã và Pháp HoaTác phẩm Đại Trí Độ luận của Ngài có lẽ là bộ luận diễn giải về các pháp Ba-la-mật của Phật giáo Đại thừa đầy đủ và rõ ràng nhất. Theo đó, các pháp Tam muội khác chỉ dứt trừ được một phần phiền não và không đoạn trừ nghiệp đời trước; còn Niệm Phật Tam muội thì có thể đoạn trừ vô số phiền nãotiêu trừ những tội chướng trong quá khứ, có vô số công đức và cứu độ vô số chúng sanh.

Có câu hỏi rằng: Tại sao phải cầu vãng sanh về Tịnh độ?

Ngài Long Thọ giải thích như sau: Năng lực và trí tuệ của chúng sanh cõi Ta bà giống như chiếc bè mục trên biển, ấm nước sôi để giữa băng tuyết. Bè chưa đến được bờ đã bị tan rã, bị nhấn chìm trong biển, nước chưa kịp dùng đã bị băng làm cho nguội lạnh. Chúng sanh cõi trần cũng vậy, sợ rằng trước khi đạt được bất thoái đã bị nhấm chìm trong vũng lầy sanh tử. Chỉ có cầu sanh về Tịnh độ, thân cận chư Phật, đầy đủ thiện căn, trau dồi nhân duyênphước đức, tránh xa các ác, bất thiệnpháp mới có thể mau chóng tu tập thành tựu.

Để được thân cận chư Phật, phải thực hành hai hạnh: (1) Sanh nhẫn (nhẫn người): Thực hành tâm từ sẽ thành tựu sanh nhẫntăng trưởng phước đứcđối trị được sự sanh khởi của các tâm ác, bất thiện. (2) Pháp nhẫn (nhẫn hoàn cảnh): Thực hành pháp nhẫn sẽ thấy được tính duyên sinh, tương quan tương duyên của vạn pháp, nên có thể phá trừ vô minhtăng trưởng trí tuệ.

Ý nghĩa vãng sanh: Vãng sanh không phải thoát khỏi nơi này và tìm một nơi khác tốt hơn sanh về để hưởng thụ. Vãng sanh chính là buông bỏ mọi chấp thủvượt qua Nhị nguyên đối đãi, sống với sự bình đẳng không phân biệt, sống với trí vô ngãvô lậu, mà vô lậu chính là Ba-la-mật. Cho nên, Tịnh độ không phải một nơi để chúng sanh cầu xin được về đó, mà phải dùng chính niềm tin kiên cố và trí tuệ vô lậuvô phân biệt của mình để tự bước vào.

Trong chú giải của Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, ngài Long Thọ có trình bày hai pháp: Dị Hành (dễ thực hành) và Nan Hành (khó thực hành) để góp thêm kiến giải về pháp môn Tịnh độ. Pháp Dị Hành sẽ giúp hành giả chứng được bất thoái nhờ trì niệm danh hiệu Phật và Bồ tát sáu thời, kết hợp với 4 pháp Sám hốiKhuyến thỉnhTùy hỷ và Hồi hướng để khiến cho nghiệp giảm, phước tăng và nhờ tha lực của chư Phật hỗ trợ, mau được thành tựu. Bên cạnh đó, Ngài còn đề cập đến ba bậc vãng sanh (Thượng, Trung và Hạ) để nói lên ý nghĩa đây là con đường dễ thực hành cho mọi căn cơ của chúng sanh.

Qua hai tác phẩm Đại Trí Độ và Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, ngài Long Thọ đã đề cập đến Tịnh độ Tây phương từ quan điểm pháp hànhtôn chỉ cũng như quan điểm xuyên suốt trong hành trạng và sự nghiệp của Ngài chính là Trung đạo Duyên khởi. Từ đây góp phần khẳng định về niên đại và vai tròcủa các bản Kinh Tịnh độ trong lịch sử phát triển tín ngưỡng và tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ cho đến ngày nay.

Những đặc tính của Tịnh độ
Trong Kinh A Di Đà và Vô Lượng Thọ có đề cập đến 6 đặc tính của Tịnh độ như sau:

Thứ nhất là Cực lạcCực lạc là niềm vui cao tột. Xét về đặc tính này, Tịnh độ và Cực lạc đồng nghĩa với nhau. Cho nên, Tịnh độ là sự vắng lặng, mà không có niềm vui nào cao tột hơn khi đã đoạn trừ được mọi khổ đau, đạt được sự an tịnh trong tâm hồn.

Thứ hai là trang nghiêmthanh tịnh: Chỉ cho Chánh báo là sự thanh tịnh và trang nghiêm của con người từ ăn mặc, nói năng, cư xử đều vắng mặt tham, sân, si, giãi đãi…. Và Y báo là sự thanh tịnhvà trang nghiêm của cảnh giớithể hiện ở chỗ: Xã hội thì phồn thịnhsung túcbình anThiên nhiên, cảnh vật thì bằng phẳng, ngay thẳng, sang trọngđẹp đẽ, thanh khiết…

Thứ ba là luôn hướng thượng: Nhờ gần gũi chư Phật, hiền Thánh mà được thuận duyên tu tậphướng đến tối thượng thừaTịnh độ không phải cảnh giới sau khi sanh về chỉ lo hưởng thụ phước đức của mình, mà chính là nơi tạo thuận duyên cho sự tu tập của hành giả. Một hình ảnh rất đặc biệt của cõi Tịnh độ chính là tòa sen to nhỏ, màu sắc, ánh sáng khác nhau dưới chân vị hành giảthể hiện cho công phu tu tập sâu cạn của vị ấy.

Thứ tư là hướng đến một xã hội đạo đứcluân lýthánh thiệnTịnh độ như một hình mẫu lý tưởngđể xây dựng một đời sống phạm hạnh thanh tịnh qua việc đoạn tận các ái, thủ, vô minhgiải thoáttất cả các lậu hoặcChúng sanh sanh về Tịnh độ đều là những hành giả đi trên con đường của Giới, Định, Tuệ, được quả vị bất thoái chuyểnA La HánBồ tát, thậm chí có vị là Nhất sanh bổ xứthành Phật. Điều này còn thể hiện tính nhất quán trong lộ trình tu tập và chứng ngộ của vị hành giảPhật giáo.

Thứ năm là âm thanh lưu xuất từ tự tánh của chúng sanh và chư Phật: Âm thanh này chính là tự tánh vô thanh, phát xuất từ tự tánh niệm Phật của vị hành giả đã thuần thục trên con đường giải thoát và âm thanh của chư Phật thuyết giảng chánh phápÂm thanh này có sức chuyển hóa mạnh mẽ đối với tự thân hành giả và cả những chúng sanh khác, vì nó lưu xuất từ trong bản thể thanh tịnhvắng lặngÂm thanh này thể hiện qua những hình ảnh chim thuyết pháptiếng gió thổi qua những hàng cây báu… ở cõi Tịnh độ được ghi lại trong Kinh A Di Đà.

Thứ sáu là thế giới của Nguyện lực: Nếu cõi Ta bà là thế giới của Nghiệp lực, thì cõi Tịnh độ là thế giới của Nguyện lực thù thắng. Chính nguyện lực mạnh mẽ này sẽ giúp hành giả sắp lâm chungđược đới nghiệp vãng sanh. Đới nghiệp giống như một khối đá dù lớn mà được chiếc bè chở đi thì không thể nào chìm xuống nước và dần dần sẽ bào mòn hết nhờ năng lực tu tập của hành giả.

Thông qua sáu đặc tính này, chúng ta như thấy cõi Tịnh độ đang hiển hiện trước mắt mình. Giống như hình ảnh chiếc bè vững chắc cứu vớt chúng sanh, dù đang mang khối nghiệp nặng trĩu trên vai vẫn có thể thuận lợi tu tậpvượt qua biển sanh tử, đến được bến bờ của sự vô lậu, an vui, giải thoát.

Pháp môn Tịnh độ ở tại Việt Nam ta đã có một lịch sử lâu dài, ít tách rời khỏi các pháp môn khác mà thường hòa quyện cùng với Thiền tông và Mật tông. Sự không tách biệt độc lập này có lẽ do đặc tính của dân tộc ta. Trong truyền thống của Phật giáo Việt Nam, với sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng Thiền, dẫu là Thiền sư, nhưng trong việc thực hành đời sống tâm linh vẫn trì tụng các thần chú và niệm danh hiệu Phật. Đến naypháp môn Tịnh độ hầu như phổ biến khắp đất nước ta, ngày càng ăn sâu và bén rễ trong lòng dân tộc, luôn đồng hành và tương trợ cùng với Thiền pháp và Mật pháp để tạo thành một Phật giáo đầy màu sắc của tính tùy duyênhòa hợp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7268)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6787)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6214)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5701)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4967)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5384)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6698)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5992)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12068)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5768)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7071)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5528)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5919)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4940)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4481)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8264)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6565)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7439)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5858)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5511)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6449)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6786)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7593)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4910)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4668)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5298)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12721)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9791)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10539)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10387)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9992)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12068)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10219)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10858)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9983)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8855)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9560)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14611)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8847)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9170)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9396)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8866)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10590)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9288)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8426)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9480)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9048)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9639)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9060)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8420)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 9005)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9041)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8819)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9426)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9097)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8849)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4121)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9102)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9955)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 8710)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant