Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Chánh ngữ

01 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7564)
05. Chánh ngữ

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543


Chánh ngữ

Trong cuộc sống trên thế gian này, con người dùng ngôn ngữ, tức là: chữ viết và tiếng nói, để hiểu nhau biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến văn hóa. Lời nói với tâm thiện, với tâm thành, đúng chánh đạo, dễ cảm thông. Trong kinh sách có câu: "Cảm ứng đạo giao nan tư nghì", tức là: "Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn", chính là nghĩa đó vậy. Chuyện không cảm thông nhau được qua lời nói, thường đưa tới việc đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức nhiên cuộc sống phiền não khổ đau, không sao tránh khỏi được.

Như vậy, chúng ta đồng ý với nhau rằng: lời nói rất là quan trọng, nhứt là lời nói chân chánh, có ảnh hưởng rất lớn lao, trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta. Theo các sách vở chỉ dạy cách xử thế của người đời, có rất nhiều phương pháp để thu phục nhân tâm, bằng lời nói. Chẳng hạn như: Làm sao khuyên bảo người khác, khi biết họ làm sai, nói sai, hay nghĩ sai? Nói cách nào cho khỏi phiền lòng người nghe? Có nên nói cho gia đình người khác biết, khi một người trong gia đình đó đang làm một việc sai trái? Có hàng bao nhiêu nguyên tắc, bao nhiêu phương pháp, bao nhiêu kỷ thuật, bao nhiêu sách vở, bao nhiêu tác giả, đã đề cập đến vấn đề này.

Tuy nhiên, trong đạo Phật, vấn đề này được giải quyết một cách đơn giản hơn: Nếu muốn nói với tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả, hay tâm thanh tịnh, thì chúng ta nên nói, lời nói khi đó gọi là chánh ngữ. Nếu muốn nói với tâm ma, tức là vọng tâm hay ác tâm, thì chúng ta không nên nói. Tại sao vậy? Bởi vì, khi chúng ta bị tâm ma điều khiển để nói năng, lời nói khi đó gọi là tà ngữ, tức là chúng ta đang tạo khẩu nghiệp, để rồi mãi mãi, chính chúng ta bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi, khổ đau nhiều kiếp. Mình còn chưa giúp gì được cho mình, làm sao giúp gì được cho ai đây?

Sách có câu: "Chuyện của ai nấy lo. Ðèn nhà ai nấy sáng".

* * *

Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ đề cập đến vấn đề lời nói trong Bát chánh đạo. Bát chánh đạocon đường đúng đắn, đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộgiải thoát, gồm tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định.

Chúng ta hãy xét qua: Thế nào là chánh ngữ? - Chánh ngữlời nói chân chánh, đúng với chân lý, hợp với Chánh Pháp, có lợi ích thiết thực, đem lại yên vui cho mọi người, hòa bình cho mọi nơi. Chánh ngữlời nói thành thậtsáng suốt, ngay thẳng và bình đẳng, hòa nhãrõ ràng, chơn chất và giản dị, khuyến tấn và nhứt như. Chánh ngữlời nói hợp thời và đúng lúc, hợp tình và hợp lý, mang đến cho người nghe cảm giác thương yêu, từ bihỷ xả.

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tâm khẩu nhứt như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác".

Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, mới được an lạc, mới đúng là người tu đạo. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, dù có hình tướng nào, cũng là người xạo, giả mạo mà thôi. 

Hoặc tệ hơn nữa, đó chỉ là người:

"Miệng thì nói tiếng nam mô
Trong lòng chứa cả một bồ dao găm".

Hoặc nguy hiểm hơn, đó là hạng người:

"Bề ngoài đon đả nói cười.
Bề trong nham hiểm giết người không dao".

Trong sách có câu: "Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi nói luôn. Lúc đó gọi là "ngộ đạo", bởi vì: "đạo bổn vô ngôn thuyết" và "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn không thể nói, không có lời nào, diễn đạt được cả. Khi còn nói được, chỉ là phương tiện, hướng dẫn mà thôi. Cho nên những ai, muốn được kiến đạo, muốn được thấy đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có, người dùng ngón tay, để chỉ mặt trăng, cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là phương tiện. Mặt trăng mới là: mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng, gọi là thấy đạo, hay là kiến đạo. Cho nên những ai, muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay, thế này thế nọ, thế kia thế khác.

Trong sách có câu: "Tri giả bất ngôn. Ngôn giả bất tri". Nghĩa là: "Người biết không nói. Người nói không biết".

Người đã biết đạo, trong kinh sách gọi là "người ngộ đạo", thường khi ít nói, hoặc là không nói. Người không biết đạo, thường hay nói nhiều, nhiều khi nói bậy, như vậy mích lòng, dễ gây tai họa, dễ gặp phiền não, dễ tạo khổ đau!

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

"Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp.
Lời nói đúng Chánh Phápích lợi làm cho tâm người nghe được an tịnh".

Ai thực hành được, chánh ngữ như vậy, tức là người đó, đang tiến trên đường, giác ngộ giải thoát. Giải thoát khỏi vòng, sanh tử luân hồi, và giải thoát khỏi, phiền não khổ đau.

Trong sách có câu:

"Lời nói chẳng mất tiền mua.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".

Trên thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng và luôn luôn thực hành câu trên đây, cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu. Dầu cù là và thuốc nhức đầu chỉ còn được dùng khi trái gió trở trời mà thôi! Làm được như vậy, trong các gia đình, vợ chồng con cái, trên thuận dưới hòa, an vui hạnh phúc, không có tranh cãi, không có xào xáo. Làm được như vậy, trong các xã hội, trật tự an ninh, luôn luôn bảo đảm, những cuộc cãi vã, đưa đến ấu đả, án mạng rùng rợn, không thể xảy ra. Làm được như vậy, nơi các quốc gia, hòa bình chắc chắn, bền vững lâu dài. Một lời nói ra, người nghe hoan hỷ, mỉm cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó là chánh ngữ.

Bằng như ngược lại, lời nói bất chánh, hay là tà ngữ, đó là lời nói, không được chánh đáng, ngược ngạo phi lý, tổn hại đời sống, cùng danh dự người. Một lời nói ra, khiến cho người nghe, nhức óc nhói tim, tâm trí quay cuồng, hồn phi phách tán, có khi ngất xỉu, đó là lời nói: sâu độc hiểm ác, đay nghiến nguyền rủa, nhiếc mắng thô tục. Có nhiều trường hợp, ngay trong gia đình, hay ngoài xã hội, ở khắp mọi nơi, lời nói đơn giản, rất dễ hiểu lầm, người nào hay giận, chỉ khổ tâm thôi, chẳng ích lợi gì!

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:

"Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói
Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người".

Tuy nhiên trên đời, có rất nhiều người, chỉ biết chửi nhau, đem gieo thương đau, cho bao người khác, nói bóng nói gió, nói xiên nói xỏ, nói cho ghét bỏ, nói lời khiêu khích, lăng nhục mạ lỵ, suốt đời không biết, không bao giờ nói, bất cứ lúc nào, chẳng kể đúng sai, chẳng hề mở miệng: nói lời xin lỗi, hay tiếng cám ơn! Lời nói phát xuất từ tâm ý con người. Tâm ý con người, thay đổi đổi thay, tùy theo hoàn cảnh. Cho nên lời nói, cũng thay đổi theo. Tâm thiện lời hiền. Tâm ác lời thô.

Trong sách có câu:

"Tâm buồn cảnh được vui sao. 
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an".

Trong năm giới của người Phật Tử tại gia gồm có: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Giới thứ tư là giới về lời nói. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, không nên dùng lời nói để lợi mình hại người, gọi là vọng ngữ hay tà ngữ, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Giới này khuyên người Phật Tử tại gia chân chánh, nên dùng lời nói để lợi mình lợi người, gọi là chánh ngữ, dù người đó là người thân hay kẻ thù. Tại sao vậy? Bởi vì trước hết, khi dùng lời nói, để hại người khác, tâm của chính mình, chắc chắn biến động, làm cho công phu, tu tâm dưỡng tánh, từ bao lâu nay, trở nên vô ích. Kinh sách gọi đó: chính là Khẩu nghiệp! 

Một lời nói ra, làm cho tan vỡ, hạnh phúc gia đình, của những người khác, làm cho mọi người, nghi ngờ lẫn nhau, đó là lời nói: mập mờ không rõ, đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy hồ, lộng giả thành chơn, có lại nói không, không lại nói có, đều do tâm tưởng. Nhiều khi nói lời, cố ý hại người, người chưa bị hại, mình đã lảnh đủ, hậu quả tức thì.

Trong sách có câu:

"Gậy ông lại đập lưng ông.
Gậy bà chẳng trúng thẳng xông lại bà".

Nhiều ông nhiều bà, tuổi tác đã già, gần đất xa trời, sống nay chết mai, vẫn tạo khẩu nghiệp, ngậm máu phun người, bươi chuyện cộng đồng, khích động bên đông, kiếm chuyện bên tây, chuyên đâm bị thóc, khoái thọc bị gạo, cạo nhớt lưng người, hay cười người khác, không nhớ có lời, cổ nhân đã dạy: "Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình". Có rất nhiều người, nói lời khích tướng, hướng tâm bất thiện, cho người kiện nhau, ghét nhau thù nhau, phiền não khổ đau, người ngu mắc bẩy.

Sách có câu: "Lời nói thốt ra, người ta ghim trong bụng". Nghĩa là lời nói lỡ phun ra rồi, không thể nào lấy lại được. Có nhiều người, nghe một lời, sống để dạ, chết mang theo! Thực là khủng khiếp!

Tuy nhiên, ai ai cũng biết rằng:

"Ghim nhiều chỉ nặng trong lòng.
Ngày ăn đêm ngủ đừng hòng được yên.
Lời nào nghe được thì im.
Bằng nghe không được, đừng ghim trong lòng".

Hiểu được như vậy, hành được như vậy, chính là pháp môn, tu theo hạnh "Xả", một trong Tứ vô lượng tâm của đạo Phật, gồm có: từ, bi, hỷ, xả. Người giữ gìn chánh ngữ là người nói lời thật thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Người giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không nói lời thiên vị, không nói lời xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa, không đổi trắng thay đen, không thêu dệt thêm bớt. Người giữ gìn chánh ngữ là người không nói láo, không nói xấu người khác, không thích nghe nói láo nói xấu, và không tin những lời nói láo nói xấu. Người nào hay nói láo, nói xấu người khác, hậu quả sẽ là không ai tin cậy, không ai thèm nghe nữa.

Trong sách có câu:

"Lời nói chẳng động tâm ta.
lời nói ngọt hay là đắng cay".

Làm được như vậy, cuộc sống khỏe re. Bằng không như vậy, nhọc nhằn phiền lụy, phiền não khổ đau, bảo sao chẳng mệt, hít thở phì phò, như bò kéo xe, chẳng ích lợi gì!

Chánh ngữ chính là: lời nói sao cho, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, không hại một ai, tất cả bình yên, an vui tự tại. Còn như tà ngữ, cùng là ác ngữ, là các lời nói, bé xé ra to, đem chứa đầy kho, oán thù sân hận, tức giận bực mình, khổ thân khổ não, khổ mình khổ người! Một lời nói ra, khiến cho người khác, mang họa vào thân, đó là lời nói: vu khống cáo gian, vu oan giá họa, không biết tiếc thương, hại người hiền lương, kiếm tiền bồi thường, vài ba triệu bạc. Thực là thất đức, ác nhân vô cùng! Một lời nói ra, khiến cho người khác, mê muội lầm lẫn, đó là lời nói: không đúng sự thực, không có ngay thẳng, thiên vị dua nịnh, xuyên tạc ngụy biện, trau chuốt bóng bẩy, mục đích thủ lợi. Một lời nói ra, khiến cho người khác, xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó là lời nói: dối trá điêu ngoa, gây ra chia rẽ, thích đâm bị thóc, khoái thọc bị gạo, di hại nhiều người, và cả muôn vật. Những người tự ái, khó lòng nhịn được, khi nghe những lời, trái ý nghịch tai, không thuận theo mình, thường hay tranh cãi, bằng bút bằng mồm, hoặc bằng thư rơi, gửi khắp mọi nơi, cho mọi người biết.

Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:

"Không nên quan tâm chuyện thế gian
Không nên loan truyền các tin đồn".

Tây phương dịch như sau:

"You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours".

Tại sao vậy? Bởi vì, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhơn ngã thị phi, phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua. Các loại tin đồn, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, chỉ nhằm làm hại, thanh danh người khác. Những chuyện thế gian, các loại tin đồn, thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an dao động, có hại mà thôi, chẳng ích lợi gì, đem đi rao truyền! Chúng ta không cần, phung phí thì giờ, một cách vô ích, để đi đính chính, những lời đồn đãi, sai lạc hoàn toàn, nếu như hoàn cảnh, không bị bắt buộc, phải làm sáng tỏ. Những kẻ xấu mồm, những người xấu miệng, lấy làm thích thú, khi thấy chúng ta, bực bội bất an, vì những lời nói, cố ý của họ. Ðó chính là điều, mà họ mong muốn. Nếu như chúng ta, bình tĩnh thản nhiên, như không có chuyện, xảy ra gì cả, những lời vu oan, sẽ tan biến dần, đi vào quên lãng. Chúng ta chỉ nên, dành hết thì giờ, tập trung lo chuyện, tu tâm dưỡng tánh, cho đến khi được: giác ngộ giải thoát.

Ðiều thứ mười trong "Mười điều tâm niệm" dạy rằng:

"Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạchnhân ngã chưa xả.
Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh".

Tại sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên khi gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc sống bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.

Trên cuộc đời này, có những chuyện không có giải đáp nào thích hợp, không có giải pháp nào thỏa đáng, không có lời khuyên nào chính xác, một cách tuyệt đối. Lúc đó, im lặng lắng nghe, tâm không phán xét, không hề tranh cãi, đúng là thượng sách, nên coi như vàng.

Bởi vậy sách có câu: "Lời nói là bạc. Im lặng là vàng". Lời nói đúng lúc, thực có ích lợi, đã là chuyện khó. Nhịn được nín được, giữ được im lặng, tạo nên hòa khí, lại càng khó hơn. Khi một người thốt lời nói lên, người khác có thể đoán hiểu được, trong tâm người đó muốn gì nghĩ gì. Nhờ yếu tố này, các ông thầy bói, các bà xủ quẻ, tiên đoán tương lai, vận may hay rủi, số hên hay xui, dù thầy bói đui, dựa theo kinh nghiệm, dựa theo tâm lý, xuyên qua lời nói, của người khách hàng, đang có tâm sự.

Trong sách có câu:

"Chẳng ai vui vẻ trong lòng.
Ði xem xủ quẻ đục trong làm gì".

Tất cả hạnh phúc trên đời đều bắt đầu từ lời nói của chúng ta. Chúng ta khởi đầu tất cả mọi sự mọi việc. Chúng ta sinh sự thì sự sẽ sinh. Chúng ta hòa bình thì bình yên tự tại. Ðừng mong người khác nói lời dễ nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.

Tây phương có câu: "Nothing will change if we do not change anything".

Trong các gia đình, có rất nhiều khi, lời nói cần thiết, để hai vợ chồng, thông cảm với nhau, cha mẹ con cái, hiểu biết lẫn nhau, để anh chị em, hòa thuận chung sống. Nhưng có nhiều người, già trẻ lớn bé, tự ái quá cao, quan trọng bản ngã, lại không chịu nói, giữ sự im lặng, một cách lạnh lùng, làm cho cuộc sống, ở trong gia đình, nặng nề khó thở, bực bội bất an. Phiền não khổ đau, bắt đầu từ đó. Thực ra nhiều lúc, chính sự im lặng, rất là cần thiết. Nhưng cũng có nhiều lúc, lời nói cần thiết hơn. Nói ra một lời, thông cảm cảm thông, không còn phiền não, chấm dứt khổ đau, tại sao không nói? Người nào cũng vậy, chẳng ai toàn thiện, luôn luôn nói đúng, chẳng có lỡ lời, tại sao lại chấp, lời nói người khác?

Bởi vậy cho nên, kinh sách có câu:

"Nói năng đúng Chánh Pháp.
Im lặng đúng Chánh Pháp".

Chúng ta nên biết: người nào đạt được "trạng thái vô tâm", nghĩa là trong tâm, không một niệm khởi, tức là bên trong, không tâm nghĩ ngợi, lăng xăng lộn xộn, bên ngoài không nói, im lặng từ bi. Không ai có thể, có đủ khả năng, đoán được trong tâm, người đó muốn gì, hay đang nghĩ gì! Tại sao như vậy? Bởi vì: "người đó vô tâm!". Thực là đơn giản!

Trong sách có câu:

"Người nào đạt được vô tâm.
Cuộc đời an lạc không tâm lụy phiền".

Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

"Tắng ái bất quan tâm.
Trường thân lưỡng cước ngọa".

Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, không làm bận lòng, chẳng có bận tâm, chúng ta sẽ nằm, duỗi thẳng hai chân, mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc, lăn qua lộn lại, trăn trở trở trăn, thấu suốt năm canh, nằm đếm suốt đêm, từ một đến ngàn! Khỏe re, khỏe ru!

Cũng trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

"Nhược ngôn hạ tương ứng. Tức cộng luận Phật nghĩa.
Nhược thực bất tương ứng. Hiệp chưởng linh hoan hỷ".

Nghĩa là:

"Nếu lời nói hòa hợp. Cùng nhau bàn nghĩa Phật.
Nếu như chẳng hòa hợp. Chấp hai tay hoan hỷ".

Lời nói thường có ngụ ý, ẩn ý, thâm ý, diệu ý, có khi là chánh ngữ, có khi là tà ngữ. Nếu thực sự, lời nói không hòa hợp được, ý kiến bất đồng, chúng ta không nên tranh cãi. Tại sao như vậy?

Bởi vì, cũng trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

"Thử tông bổn vô tránh. Tránh tức thất đạo ý".

Nghĩa là:

"Tông này vốn không tranh. Tranh cãi mất ý đạo". 

Con người muốn thấy được đạo, tức là muốn cuộc sống được an lạc hạnh phúc, hãy bớt quan tâm chuyện tranh cãi, hãy bớt bàn chuyện chuyện thị phi! Bớt được bao nhiêu, an lạc bấy nhiêu! Cổ nhơn có dạy: "Nghe lời nói phê bình chê bai mà tức giận, tức là châm ngòi cho người khác gièm pha. Nghe lời nói khen ngợi tán dương mà mừng rỡ, tức là làm mồi cho người ta nịnh hót".

Người biết cách nói là người đi gieo kinh nghiệm, tư tưởng. Còn người biết cách nghe là người đi thu lượm kho tàng. Có những lời nói, hết sức cao quý, hết sức tác dụng, ý nghĩa thâm trầm, người đời ghi lại, ở trong sách vở, gọi là danh ngôn, hay tư tưởng đẹp, lời hay ý đẹp, hoa thơm cỏ lạ. Ngược lại cũng có, những lời nói ra, người đời mỉa mai, gọi là ranh ngôn.

Trong sách có câu: "Cọp chết để da. Người ta chết để tiếng".

Hoặc là:

"Trăm năm bia đá cũng mòn.
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".

Ðiều này chứng tỏ, lời nói con người, thực có hậu quả, khó thể đo lường! Trí tuệ con người, phát triển thiền định, ở trong tĩnh lặng. Còn như nhân cách, tư cách con người, phát triển ở trong, phong ba bão táp, nghịch cảnh thử thách, những bước thăng trầm, vinh nhục được mất, trong sức chịu đựng, lời khen tiếng chê. Trong kinh sách gọi đó là "Bát Phong".

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

"Như ngọn núi vững vàng. Trong phong ba bão táp.
Người trí cũng như vậy. Bình thản trước khen chê".

* * *

Tóm lại, muốn sống cuộc đời an lạchạnh phúc, người đời nên nói lời chân chánh, thật thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng, cho mình và cho mọi người. Người giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không thiên vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa, không gây phiền não khổ đau qua lời nói.

Chánh ngữ giúp con người cải tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh phản ánh tự tâm. Tự tâm tức là tâm của mình. Tự tâm bình thản, hoàn cảnh an vui. Tự tâm rối loạn, hoàn cảnh bất an. Trong kinh sách, tự tâm được gọi là chánh báo, hoàn cảnh được gọi là y báo. "Chánh báo thế nào thì y báo thế ấy". Người có tâm lương thiện thì sống trong cảnh hiền lành. Người có tâm bất lương, gian ác thì luôn luôn sống trong cảnh âu lo căng thẳng, thấp thỏm phập phồng.

Trên thế gian này, sở dĩ có những hoàn cảnh khổ đau, bởi vì con người không biết sống với chân tâm. Chân tâmtâm chân thật, không dính mắc với cảnh trần. Nếu mọi người đều biết sống với chân tâm, thì thế gian này chính là thiên đàng, là cực lạc. Ðừng đứng núi này trông qua núi nọ. Nghĩa là thân đang sống ở trần đời, ở thế gian này, nhưng tâm thường mơ ước cảnh thiên đàng cực lạc. Những người như vậy, mơ ước như vậy, chỉ làm khổ thân, khổ tâm mà thôi.

Chư Tổ có dạy: "Tùy theo chỗ ở thường an lạc". Nghĩa là: "Hãy tìm thấy an lạc ngay nơi mình đang ở".

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:

"Tuy học rộng hiểu nhiều mà không tu hành, cũng đồng như người không học không hiểu.
Chẳng khác nào người nói ăn mà không ăn, trọn không thể nào no được".

Theo quan điểm của Phật giáo, không cần phải thờ phượng Ðức Phật Thích Ca, hay bất cứ vị Phật nào, vị Bồ Tát nào, chỉ cần thực hành chánh ngữ, một cách đúng đắn, trong cuộc sống hằng ngày, bất cứ người nào cũng đều được an lạchạnh phúc, cao hơn nữa, đều được giác ngộgiải thoát. Bằng như ngược lại, lập bàn thờ Phật, tại chùa tại gia, đi chùa lễ lạy, lập chùa chiền to, tạo pho tượng lớn, mà không thực hành, lời nói chân chánh, tức là Chánh Ngữ, một cách đúng đắn, ở trong cuộc sống, dù là Phật tử, tại gia xuất gia, cũng chẳng lợi gì! Ðó mới thực là: chí công vô tư, là chánh đạo vậy./.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8712)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9151)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10070)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10249)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11112)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9086)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9551)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8092)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9342)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11383)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8763)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9131)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17559)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12233)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26209)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9590)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9450)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10033)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9753)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10308)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13735)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16038)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15667)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19148)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18961)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13894)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19261)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11759)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23257)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19295)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18378)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8755)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27134)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20029)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15343)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15558)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26877)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16435)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19462)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19836)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19985)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18676)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32564)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20325)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 46003)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6904)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24434)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39344)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19935)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40842)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18526)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9245)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14254)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18227)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17709)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant