Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Y nghĩa bất y ngữ

01 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8612)
14. Y nghĩa bất y ngữ

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Y nghĩa bất y ngữ 

Lời nói chẳng động tâm ta.
lời nói ngọt hay là đắng cay.

Trên thế gian này, chúng ta thường gặp, nhiều điều phiền não, lắm nỗi khổ đau, sinh ra do bởi, lời nói con người. Chỉ cần thoáng nghe, một lời nặng nhẹ, một lời phê bình, phê phán chỉ trích, dù đúng hoặc sai, một lời bóng gió, vu vơ mơ màng, một lời truyền miệng, hoặc chuyện rỉ tai, con người liền khởi, tâm niệm bực bội, tức giận bất an

Người nào chấp ngã, tự ái quá độ, đụng độ tức thì, bùng nổ chiến tranh, sanh ra lớn chuyện, người đi bệnh viện, kẻ đi lao tù. Người nào tự chế, ngoài mặt tĩnh bơ, nhưng ở trong lòng, sóng gió ba đào, về đến tận nhà, ăn không biết ngon, tối ngủ chẳng yên. Những lời khó nghe, văng vẳng bên tai, một cách dai dẳng, chẳng biết làm sao, dứt bỏ cho được. Cái người nói ra, những lời khó nghe, đã đi đâu mất, đã quên từ lâu. Chỉ có người nghe, cảm thấy nặng nhọc, như bò kéo xe. Tại sao như vậy? Bởi vì người nghe, nghe rồi thì dính, dính rồi đem vào, chất chứa bên trong, kho tàng tâm thức, lâu lâu nhớ lại, tức giận một mình! 

Bởi vậy cho nên, nếu như muốn có, cuộc sống hằng ngày, an lạc hạnh phúc, chúng ta nên dẹp, bỏ tự ái xằng, bằng cách diệt trừ, chấp ngã chấp pháp, luôn luôn thực hành: Giáo Pháp Vô Ngã, bằng cả tấm lòng: Từ Bi Hỷ Xả, nhứt là hiểu rõ, thực hành "Tứ Y" như lời Phật dạy, cuộc sống hằng ngày, của mỗi chúng ta

Giáo lý Tứ Y, ở trong đạo Phật, gồm có bốn điều:

Y Pháp Bất Y Nhân, Y Nghĩa Bất Y Ngữ, Y Trí Bất Y Thức, Y Liễu Nghĩa Bất Y Bất Liễu Nghĩa.

* * * 

Trong bài viết này, chúng ta đề cập: "Y Nghĩa Bất Y Ngữ". Câu này có nghĩa: chúng ta chỉ nên, quan tâm ý nghĩa, không nên chấp chặt, ngôn ngữ văn tự, không nên chấp chặt, lời nói chữ viết, nếu chúng không có, ý nghĩa gì cả. Làm được như vậy, chúng ta bớt nhiều, phiền não khổ đau, trên thế gian này. 

Có những lời nói, thực ra vô nghĩa, nhưng cũng có thể, làm cho người khác, bực mình bực mẫy, giận lẫy bất an. Chẳng hạn như là: có người nói rằng, mình ngu như bò, mà bày đặt trò, dạy đời dạy đạo, xạo quá xá chừng! Chẳng hạn như là: có người nói rằng, mình chép bài viết, của các người khác, rồi để tên mình, xưng là tác giả! 

Nếu như thu nhận, các câu nói đó, chứa trong tâm trí, rồi sanh phiền não, bất an giận tức, quả thực như là: chúng ta không được, thông minh cho lắm. Các loại câu nói, tương tự như vậy không có căn cứ, vào chỗ nào cả, chúng ta khởi tâm, giận tức làm gì, cho mệt tấm thân. Thực ra nên hiểu, những lời nói đó, đều là vô nghĩa, bởi vì chính mình, không ngu không dốt, bởi vì chính mình, không phải con bò, bởi vì chính mình, không chép trộm bài, của bất cứ ai, cho nên không cần, quan tâm chú ý, những lời như vậy. 

Những lời nói đó, trên thế gian này, thực là quá nhiều, thường làm điêu đứng, khổ nạn người nghe. Người đời thường thích, nói ra những lời, chọc tức người khác, bằng những lời nói, mơ hồ vu vơ, không có căn cứ, không có nghĩa gì. Thí dụ có người, hỏi chúng ta rằng: Tại sao dạo này, anh hay là chị, bị mất uy tín, quá xá như vậy? Câu hỏi thế đó, không có ý nghĩa, chỉ nhằm mục đích, chọc tức mà thôi. Chúng ta nghe rồi, thì thôi đừng nhớ, có thể lờ đi, như không nghe thấy, bởi vì nếu hiểu, một cách tường tận: giáo lý "vô ngã", không có "bản ngã", nên không thu nhận, những lời như vậy, vào trong tâm trí

Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta không còn, cảm thấy bực bội, phiền não khổ đau. Hoặc khiêm nhường hơn, từ tốn đáp rằng: Chúng tôi đâu có, uy tín hồi nào, để mất cơ chứ! Hoặc là có người, phê bình chúng ta, thường hay nóng tánh, chúng ta lập tức, phản ứng tức thì, lên tiếng cãi chánh, khởi tâm niệm bực, quả thực người ta, nói chẳng có sai, chứ còn gì nữa! 

Thậm chí có người, viết bài phê phán, miệt thị chỉ trích, mạ lỵ chửi bới, vu khống sỉ vả, khiêu khích lăng nhục, bôi lọ chụp mũ, đặt điều bịa chuyện, nhưng chúng ta y nghĩa bất y ngữ, họ không thể nào, xúc phạm đụng chạm, gây ra phiền não, tạo thêm khổ đau, cho chúng ta được. 

Người ta cố ý, đưa lửa tới đốt, mình không đáp ứng, không đưa thân tâm, ra để lãnh đủ, thì họ chỉ đốt, "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì, đến chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy, về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi, phí công tổn sức, rồi tự ngưng thôi. 

Còn nếu ngược lại, chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, nói gần nói xa, biện bạch phải quấy, cho rõ đúng sai, cũng giống như là, thổi hơi vào lửa, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây thêm cảm hứng, tạo thêm duyên cớ, cho họ làm tới, chuốc thêm phiền não, khổ đau mà thôi. 

Lúc Phật tại thế, gặp người ngoại đạo, đi theo quấy rầy, nhưng vẫn thản nhiên, cất bước khoan thai, như không có chuyện, xảy ra gì cả. Người đó thấy Phật, tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua chưa? Lúc đó Đức Phật, từ tốn nói kệ: 

Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên.

Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành

Lại còn thêm nữa, tâm của chúng ta, luôn luôn tưởng tượng, cho nên gây ra, phiền não khổ đau. Một lời nói ra, diễn giải kiểu nào, tùy tâm người nghe. Có người nói ra, một câu thực là: vô-thưởng-vô-phạt, vô-ý-vô-tứ, chẳng ngụ ý gì, chúng ta tưởng tượng, suy diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi chuốc lấy, giận dỗi bực bội, phiền não khổ đau. Chuyện này xảy ra, trong mọi cuộc sống, của các gia đình, ở khắp mọi nơi, rất là thường xuyên

Trong cuộc nói chuyện, bàn cãi thảo luận, ở giữa đám đông, thường dễ mích lòng, chỉ vì câu nói, của một con người, cộng thêm tâm trí, tưởng tượng phong phú, của các người khác. 

Nếu trong gia đình, người vợ người chồng, nói ra lời nào, đều được hiểu theo, khía cạnh tốt đẹp, đừng có tưởng tượng, khía cạnh xấu dở, cuộc sống gia đình, chắc chắn hạnh phúc. Dễ chịu một chút, cảm thông một chút, tha thứ một chút, cuộc sống chắc chắn, vui vẻ khỏe khoắn, nhiều hơn một chút! 

Khi chúng ta nói, tốt cho người nào, người đó sẽ ráng, cố gắng giữ gìn, được tốt như vậy. Người đó sẽ ráng, phát huy mặt tốt, bỏ điều không tốt. Chẳng hạn như là: cha mẹ rầy la, nhiếc mắng con cái, nhưng không bao giờ, mở lời khen thưởng, cũng không bao giờ, nói tốt con cái, thậm chí nhiều khi, đem các tật xấu, của con cái mình, nói với người ngoài, trước mặt con cái. Tác dụng giáo dục, sẽ rất tiêu cực, dễ gây buôn bực, cho con cái mình! 

câu chuyện sau, đáng cho các bậc, phụ huynh nghiền ngẫm: Có một chú tiểu, sống trong tu viện, đợi khi trời tối, thường hay leo tường, đi ra ngoài chơi. Vị sư trụ trì, biết được việc ấy, nhưng chẳng nói gì. Hôm nọ sau khi, đi chơi trở về, chú tiểu leo tường, trở vào bên trong, bởi vì trời tối, không có đèn dầu, đặt chân ngay đầu, của vị sư phụ, thay vì chiếc ghế, dùng để trèo tường, ra chơi bên ngoài. 

Vị thiền sư đó, chẳng nói nửa lời, quở phạt trách móc, còn ân cần khuyên: Con đi ngủ đi, đã khuya rồi đó! Từ đó về sau, chú tiểu cảm thông, không dám tái phạm, bèn hạ quyết tâm, hết lòng hết sức, tận tâm tận tình, tận lực tận sức, tu học tinh tấn. Về sau trở thành, một vị thiền sư, nổi tiếng khắp nơi, giúp ích đạo đời, nhiều người lợi ích. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu: 

Tha thứ thì thư thái. Thư thái thì thành tựu.

Thành tựu thì thanh thản. Thanh thản thì thảnh thơi.

Có rất nhiều khi, người ta nói xong, lời nói khó nghe, làm mình khó chịu, ngày này ngày khác, tháng này tháng khác, năm này năm khác, trong khi người nói, quên mất lâu rồi, còn mình thì sao, lúc nào cũng nhớ, ôn đi lập lại, làm khổ lỗ tai, vợ chồng con cái. 

Như vậy nên biết, nếu như chúng ta, không hề chấp chặt, lời nói vô nghĩa, câu văn bài viết, xuất phát từ lòng, ganh tị đố kỵ, ghen ghét hơn thua, hận thù thành kiến, nhứt định chắc chắn, chúng ta sẽ không, nhức đầu nhói tim, khỏi cần uống thuốc, chẳng cần xức dầu, nghĩa là chúng ta, không hề phiền não, và chẳng khổ đau. 

Chẳng hạn như khi: chúng ta đi dự, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà, đem ra biếu tặng, chúng ta không nhận, tức nhiên chủ nhà, giữ quà đó lại. Cũng y như vậy, người đời thường tặng, lời khen tiếng chê, đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận, tức nhiên sẽ được: ăn ngon ngủ yên, an lạc hạnh phúc. 

Trong sách có câu:

Thần khẩu nó hại xác phàm.

Người nào nói quá họa làm khổ thân.

Hoặc:

Lỡ chân gượng được đứng lên.

Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi.

Hoặc:

Nước đổ còn khó hốt thay.

Nói rồi hối hận chẳng hay chút nào. 

 Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, ít ai hối hậnít nói,

 nhưng nhiều người hối hậnnói nhiều, và nói quá lời. 

Trong gia đình nào, vợ chồng đồng lòng, tu tâm dưỡng tánh, nếu vợ hay chồng, nói lời khó nghe, người kia vui vẻ: nói bớt chút đi, giảm 50% nhe, sao mắc quá vậy? Người vợ hay chồng, nghe qua liền tỉnh, nở nụ cười tươi. Thế là mọi sự, mọi việc bình yên, vui vẻ khỏe khoắn, gia đình hạnh phúc, chắc chắn không nghi! Gia đình như vậy, khỏi coi thầy bói, khỏi tới luật sư, khỏi thăm bác sĩ, mặt không như khỉ, tâm hồn phơi phới, thanh thản thảnh thơi, vui tươi suốt ngày! 

Trong lòng chất chứa, quá nhiều lời nói, thường là khó nghe, nên khó tiêu hóa, tâm của chúng ta, sẽ bị bất an, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên, thành tiên mắc đọa, thực là tai họa, cuộc đời kém vui. Nếu chúng ta hiểu, lời nói người khác, khía cạnh tốt đẹp, chắc chắn cuộc đời, sẽ vui vẻ hơn. 

Như trong gia đình, vợ chồng con cái, nói lên lời nào, đều được mọi người, hiểu theo ý tốt, vui vẻ đón nhận, chắc chắn gia đình, luôn luôn hạnh phúc, không có tranh cãi, khỏi phải cầu nguyện, khỏi cần van xin, thần linh thượng đế, phù hộ độ trì

Người nào đang mang, mắt kiếng màu hồng, sẽ thấy cuộc đời, hồng hồng vui tươi, sáng sáng trong trong. Bằng như ngược lại, người nào đang mang, mắt kiếng màu đen, sẽ thấy cuộc đời, u ám tối thui, nhìn thấy người nào, cũng tưởng là ma, đen thủi đen thùi! Hạnh phúc thối lui, phiền não khổ đau, khởi đầu từ đó! 

Trong kinh sách có, câu chuyện như sau: Chú tiểu theo sau, hầu vị hòa thượng, cả hai đang đi, trên con đường làng. Nhìn thấy cảnh tượng, các người nông dân, làm lụng vất vả, các con trâu cày, cực nhọc vô cùng, nhiều con côn trùng, bị lưỡi cày cắt, đau đớn oằn oại, khắp nơi trên ruộng, chú tiểu phát tâm, đại từ đại bi, thương xót chúng sanh, bèn thốt lên rằng: Con quyết tu hành, cho thành chánh quả, để độ chúng sanh

Vị hòa thượng tán: Con tâm bồ tát, hãy đi phía trước, để thầy đi sau, con chớ đi mau, thầy không theo kịp. Đi thêm một đoạn, cảm thấy mệt quá, chú tiểu bèn than: Tu hành thiệt khổ! Không tu sướng hơn! Vị hòa thượng phán: Con đã thối tâm, hãy đi phía sau, để thầy đi trước! Câu chuyện có nghĩa: Nói nhiều chừng nào, thố lộ người biết, tâm của chính mình, động nhiều chừng ấy! Đơn giản như vậy! 

Trên đời này có, rất nhiều người thích, thần thông phép lạ, chứ không quan tâm, tu tâm dưỡng tánh. Chẳng hạn như là: họ tất thích được, chứng thiên nhãn thông, và thiên nhĩ thông. Tức là khả năng, thấy được ngàn dặm, nghe được ngàn dặm, xuyên sơn cách vách. Những người như vậy, nếu được thần thông, không còn an ổn, chắc chắn khổ đau, vô cùng vô tận

Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết, những lời sau lưng, lời nói sau vách, lời nói nơi xa, thường là những lời, nói rất khó nghe, như bò kéo xe, không nói trước mặt, đó là những lời, phát từ tâm ma, không phải tâm Phật, chẳng hạn như là: tâm tham sân si, ganh tị đố kỵ, hơn thua phải quấy, thị phi đúng sai. 

Trong sách có câu: "Tiếng lành đồn gần. Tiếng dữ đồn xa". 

Khi nghe được những, lời nói như vậy, bởi vì không biết, tu tâm dưỡng tánh, chắc chắn con người, khởi tâm tức giận, cuộc sống bất an, bắt đầu cho những, phiền não khổ đau, xảy ra sau đó, bởi do tâm ma, từ chính mình ra, khiến mình phản ứng, đối chọi trả đủa, những điều nghe được, những điều thấy được, do thiên nhĩ thông, do thiên nhãn thông! 

Bởi vậy cho nên, đạo Phật chủ trương: tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp chuyển nghiệp, chuyển hóa cuộc đời, phiền não khổ đau, biến thành an lạc, hạnh phúc trần gian. 

Ở trong đạo Phật, không hề quan trọng, các chuyện thần thông, phép lạ kỳ hoặc, không cần biết đến, tượng đá biết khóc, thiệt hay là không, không cần biết đến, tranh chảy nước mắt, thiệt hay là không, không cần biết đến, thần thánh hiện ra, ở trên vách tường, trên các đám mây, trên các ngọn cây, trên nóc nhà thờ, trên các cánh đồng, hay trong giáo đường, trong các chùa miễu, thiệt hay là không. 

Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết, những chuyện thần thông, không thiệt không tưởng, chẳng hề đem lại, ích lợi gì cả, cho việc tu học, tu tâm dưỡng tánh, chẳng hề đem lại, an vui lợi lạc, cho bất cứ ai. Người nào chỉ biết, quan tâm đến chuyện, thần thông phép lạ, linh thiêng huyền bí, mơ mơ hồ hồ, cầu nguyện van xin, tức là người đó, lạc vào tà giáo, hành theo ngoại đạo, không phải Chánh Pháp, đúng của đạo Phật, dù người đó là: tu sĩ tại chùa, Phật Tử tại gia! 

Hơn nữa chúng ta, cần lưu ý rằng: chính con người thường, làm việc cứu xét, phong thánh phong thần, cho nhiều người khác, qua đời trước kia, vì không giữ được, mạng sống của họ, nên phải hy sinh. Để rồi sau đó, cũng chính con người, cầu nguyện thần thánh, trở lại giúp đỡ, phù hộ độ trì, bảo vệ gìn giữ, chính thân mạng mình, và linh hồn mình! Thực là lẩn quẩn! Thực là loanh quanh! Thực là ngây thơ! Như người đang mơ, chưa chịu tỉnh thức! 

Đối với lời nói, sách vở cổ kim, từ đông sang tây, ca dao tục ngữ, truyền miệng thế gian, có thực là nhiều, chẳng hạn như là: 

"Ăn thì phải nhai, nói thì phải nghĩ". 

"No ăn mất ngon. Giận nói mất khôn". 

"Thân giáo hơn là khẩu giáo". 

"Người khôn nói ít hiểu nhiều.

Người ngu nói mấy cũng liều tấm thân". 

"Nên làm gương hơn là nói bằng lời". 

"Deeds speak louder than words".

"Người khôn nói ít mà hay.

Người nào nói lắm dù hay cũng nhàm". 

"Hay làm hơn là hay nói. Hay nói không bằng nói hay". 

Người ta thường chê những kẻ "Năng thuyết bất năng hành", tức là những kẻ, chỉ biết nói suông. Chẳng hạn như là: sống trong gia đình, muốn có hạnh phúc, người làm cha mẹ, nên phải làm gương, cho con bắt chước, người nào hổn xược, con cũng làm theo, người nào gian dối, con cũng dối gian, làm sao đàng hoàng, thẳng ngay cho được? Nhân nào quả nấy! Hình nào ảnh nấy! 

Trong sách có câu: "Trên đường chó sủa, cứ mặc chó sủa, đoàn người đang đi, vẫn tiếp tục đi", có ngụ ý rằng: người đời thường hay, lắm lời nhiều chuyện, lắm miệng to mồm, thường xen vào chuyện, của nhiều người khác, thường hay chơi trò, thọc gậy bánh xe, thường thích ngậm máu, phun người lấm lem, thường phao tin đồn, rêu rao nhảm nhí, nản chí người ngay, thường hay phê phán, cho người đâm chán, chẳng muốn làm gì, ích lợi mọi người. Người đời cho đó, là hạng chó sủa, chẳng đáng quan tâm, vững lòng tiến bước, đoàn người cứ đi, chẳng vì chó sủa, đâm ra nản lòng, thối chí uổng công

Tuy nhiên người biết, tu tâm dưỡng tánh, thường không ví họ, tệ hại như chó, theo thói thường tình, không coi những người, thường hay mắng chửi, hay thường tâng bốc, là những kẻ thù

Tại sao như vậy? Bởi vì thế này, nếu làm như vậy, tâm mình bị động, bực bội bất an, công phu tu tập, khó mà khá được. Trái lại, chúng ta nên coi, họ như những bực, thiện hữu tri thức, những vị giám khảo, trên đường tu đạo, thử thách tâm mình, tu tập đến đâu, nếu biết chăn trâu, hãy giữ tâm mình, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, trước mọi sóng gió, mọi tiếng khen chê, phê bình chỉ trích, nói khích nói trêu, vững tâm bồ đề, chẳng hề lay chuyển. Làm được như vậy, công phu tu tập, mau chóng đạt thành, kết quả mỹ mãn. 

* * *

Tóm lại nếu như, chúng ta thực hành, "y nghĩa bất y ngữ" được bao nhiêu, cuộc sống chúng ta, an lạc hạnh phúc, tương ứng bấy nhiêu. Y nghĩa bất y ngữ giúp con người, cải thiện đời sống, chuyển hóa hoàn cảnhHoàn cảnh an vui, hay là khổ não, đều do chúng ta, tạo ra gây ra. 

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:

"Nhất Thiết Duy Tâm Tạo". 

Nghĩa là tất cả mọi sự mọi việc đều do tâm của chúng ta tạo ra. Hiểu sai lời nói, chấp chặt ngôn ngữ, chắc chắn sinh sự. Sinh sự sự sinh. Nếu như chúng ta, muốn sống trong cảnh, an nhiên tự tại, thì hãy ráng nhớ: "y nghĩa bất y ngữ". Thực là đơn giản! 

Trong sách Phật học, các từ ngữ như: "vô học", "hư thân", ý nghĩa thâm sâu. Người muốn thực hành, tu tâm dưỡng tánh, phải học kinh điển, và đem áp dụng, đời sống hằng ngàyCho đến lúc nào, không chỗ chứng đắc, không phải học nữa, lúc đó được gọi: là bậc vô học, tức là bồ tát. Còn cái từ ngữ, hư thân nghĩa là: cái thân tứ đại, tất cả chúng ta, đều là giả tạm, hư dối không thực, tạm bợ vô thường, biến đổi luôn luôn, tùy theo thời gian, cho đến lúc bị, hư hoại mất đi, về với cát bụi. Ở ngoài thế gian, cũng những chữ đó, nhưng có nghĩa khác, ý xấu tiêu cực, thường dùng ám chỉ, miệt thị người khác. 

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: 

 "Không nên quan tâm, đến chuyện thế gian.

 Không nên loan truyền, các loại tin đồn". 

Tây phương dịch là: "You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours". 

Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết, các chuyện thế gian, thường là những chuyện, nhơn ngã thị phi, phải quấy đúng sai, tranh chấp hơn thua. Các loại tin đồn, thường không căn cứ, không có xác thực, không đáng tin cậy, khó kiểm chứng được, chỉ nhằm làm hại, thanh danh người khác. 

Những chuyện thế gian, các loại tin đồn, thảy đều làm cho, tâm trí con người, bất an chao động, có hại mà thôi, chẳng ích lợi gì, đem đi rao truyền! Những kẻ xấu mồm, các người xấu miệng, lấy làm thích thú, khi thấy chúng ta, bực bội bất an, vì những lời nói, cố ý của họ. Đó chính là điều, mà họ mong muốn. 

Nếu như chúng ta, bình tĩnh thản nhiên, như không có chuyện, gì xảy ra cả, những lời vu oan, sẽ tan biến dần, đi vào quên lãngChúng ta chỉ nên, dành hết thì giờ, tập trung lo chuyện, tu tâm dưỡng tánh, cho đến khi được: giác ngộ giải thoát

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

Tắng ái bất quan tâm.

Trường thân lưỡng cước ngọa. 

Nghĩa là những chuyện, thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng ta sẽ nằm, thẳng hai chân cẳng, mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc, khỏi phải trăn trở, nằm đếm một hai, ba bốn trăm ngàn! Khỏe re! Khỏe ru!

Như vậy chính là: "y nghĩa bất y ngữ". 








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8715)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9152)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10071)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10251)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11112)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9086)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9551)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8092)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9342)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11384)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8763)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9131)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17560)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12234)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26210)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9590)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9450)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10033)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9756)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10308)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13736)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16049)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15672)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18720)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19149)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18962)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13895)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19262)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11761)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23259)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19295)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18378)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8755)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27134)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20029)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15344)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15558)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26877)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16436)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19463)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19838)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19985)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18676)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32565)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20325)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 46003)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6905)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24434)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39346)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19935)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40843)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18526)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9246)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14254)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18227)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17710)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant