Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Tâm thư

01 Tháng Hai 201100:00(Xem: 7761)
01. Tâm thư

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Tập 03 
01 Tâm thư
02 Ái ngữ
03 Cốt tủy của Đạo Phật
04 Chữ tâm trong Đạo Phật
05 Đầu năm đi chùa
06 Dâng sớ cầu an
07 Giá trị của con người
08 Không có, có không
09 Luật Nhân quả
10 Năm người mù rờ voi
11 Phước huệ song tu
12 Thủ ấn của Phật Thích Ca
13 Tu tâm, dưỡng tánh
14 Y nghĩa bất y ngữ
15 Ý nghĩa của cuộc sống
16 Gia đình hòa thuận
17 Tội nghiệp
18 Nhân nào quả nấy
19 Biết mình có phước
20 Tứ nhiếp Pháp 
Ðược chỗ không. Không chỗ được.
Thực tu thực chứng. Vô tu vô chứng.

-ooOoo-

Tâm thanh tịnh
Cư-sĩ Chính-Trực

Ngày mai ai cũng chết
Ngày nay không tranh cãi
Muôn sự không còn mãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh

Đóa hoa tươi
Cư-sĩ Chính-Trực

Xin học hạnh của đất
Nhận chịu của thế gian
Thơm tho và hôi thúi
Hóa thành đóa hoa tươi

-ooOoo-

Người không sương gió khó thành công.
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
(Cư-sĩ Chính-Trực)

-ooOoo-


Lời Tựa

Người tu học theo Phật thường băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, trước một rừng kinh sách của đạo Phật. Tập sách này trình bày các bước căn bản tu học theo Phật, có thể áp dụng trong đời sống hằng ngày, gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật.

Khi tu học theo Phật, chúng ta thường phát bốn nguyện lớn:

- Một: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ". Nghĩa là: có rất nhiều loại chúng sanh trong tâm thức, trong tư tưởng, gây nên các tâm niệm sanh diệt, lăng xăn lộn xộn, thương ghét thị phi, cần phải dẹp hết.

- Hai: "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn". Nghĩa là: có rất nhiều loại phiền não trong tâm thức, trong tư tưởng, gây nên các tâm niệm sanh diệt, sanh tử luân hồi, cần phải đoạn trừ dứt sạch.

- Ba: "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học". Nghĩa là: có rất nhiều pháp môn, hay phương pháp tu tập, để đạt giác ngộgiải thoát, chúng ta cần thực hành trong việc tu học theo Phật.

- Bốn: "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Nghĩa là: thực hành trọn vẹn được ba điều thệ nguyện trên đây, con đường chuyển hóa tâm thức sanh diệt thành Chân Tâm Phật Tánh nhứt định được thành tựu viên mãn.

Tất cả những lời thệ nguyện lớn trên đây đều qui về một chữ: "TÂM". Dù thực hành theo bất cứ tông phái nào, pháp môn nào, người tu học theo Phật chỉ có một mục đích cứu kính là: hàng phục tâm của mình và an trụ tâm của mình. Nhờ đó được an lạchạnh phúc.

Nguyện chánh pháp được phổ biến, nguyện mọi người sống đời được vui đạo, cho nên bài viết trong các tập sách Cư Trần Lạc Ðạo được hoan hỷ cúng dường chư Phật Tử mười phương, để tùy nghi xử dụng đem lợi lạc cho mọi người, được phép trích dẫn, in lại, đăng báo, thu băng, phát thanh, từng bài hoặc toàn tập, để phổ biến dưới mọi hình thức, một cách bất vụ lợi.

Kính chúc quí độc giả cư trần lạc đạo.

Toronto, Mùa Hạ An Cư Năm 2002
Cư-sĩ Chính-Trực

Tâm thư 
(06-2001)

Kính thưa chư đạo hữu,

Lời nói vốn không có nghĩa cố định, chỉ tạm dùng để truyền đạt tư tưởng của con người. Cho nên để tiến bộ trên đường tu họccảm thông lẫn nhau, chúng ta nên trao đổi với nhau trong tinh thần "đạt ý quên lời". Nói theo sách vở, đó chính là: "y nghĩa bất y ngữ" vậy.

Trong tinh thần đó, chúng tôi xin phát biểu các điểm sau:

Trong Phật giáo, có nhiều tông phái, nghĩa là có nhiều pháp môn tu tập, thích ứng cho từng căn cơ, theo từng hoàn cảnh, thích hợp với nhu cầu và sở nguyện của mỗi cá nhân, tại giaxuất gia. Do đó, không thể đem giới luật của một hạng người đem áp dụng cho tất cả mọi người được, không thể áp dụng pháp môn tu tập của một giới này cho một giới khác được. Cách tu tập cũng như giới luậttâm nguyện của Phật Tử xuất gia, tức là các bậc tôn túc tăng ni, khác với Phật Tử tại gia. Không hiểu điều này một cách rõ ràng, nghiêm túc, các cuộc thảo luận đạo lý, hay học hỏi Phật Pháp, thường đưa đến chỗ hí luận, tranh cãi vô ích, làm mất hòa khí, hay động tâm không tốt.

Trong các cuộc thảo luận đạo lý, hay học hỏi Phật Pháp, người nào mang nặng kiến chấp về một cá nhân hay một vấn đề nào đó, thường không giữ được sự bình tỉnh sáng suốt, cho nên không thấy rõ vấn đề, trong khi bao nhiêu người khác đều thấy rõ, biết rõ. Chẳng hạn như là: một người đi vào một căn phòng, thấy tối om om, bèn la lên: Tại sao căn phòng này thiếu ánh sáng quá vậy? Có người thương hại nói giúp: Bạn bỏ cặp kiếng đen xuống, bạn sẽ thấy căn phòng sáng liền chứ gì!

Cũng vậy, khi đọc một quyển sách, hay một bài viết, nhứt là về Phật Pháp, con người nên có tâm bình thường, bất tùy phân biệt, mới có thể hy vọng thấu hiểu được nội dung của quyển sách hay bài viết, mà tác giả muốn gửi gấm, gói ghém trong đó. Nếu có điều nào, điểm nào, đoạn nào chưa sáng tỏ, hay còn nghi vấn, thắc mắc, cần thảo luận để sửa đổi, bổ túc, hoàn chỉnh, đó là việc nên làm trong tinh thần từ bi của người biết tu tâm dưỡng tánh, tránh sự tranh cãi.

Một câu văn hay một đoạn văn thường chưa đủ diễn tả hết tư tưởng về một vấn đề nào đó, cho nên cần có câu văn hay đoạn văn sau đó bổ túc. Tuyệt đối không nên trích một vài chữ, một vài câu, hoặc một đoạn văn trong một bài viết hay toàn bộ quyển sách, rồi kết luận đó là "đại ý" của tác giả, rồi kết luận một cách vội vàng, hoặc kết án một cách bừa bải. Ðó là các việc làm thiếu nghiêm túc và không đúng đắn, về phương diện thế gian, cũng như về phương diện đạo lý. Vô tình làm như vậy con người chỉ thấy được một bộ phận của con voi, không thấy đuợc nguyên hình của con voi, như trong câu chuyện năm người mù rờ voi.

Tùy theo căn cơcông phu tu tập của mỗi cá nhân, một bộ kinh hay một bài viết về Phật Pháp, thậm chí một pháp môn tu tập, có thể được hiểu một cách khác nhau. Ðó là lẽ thường tình, không có gì đáng ngạc nhiên, không cần tranh cãi. Kinh Phật thường có rất nhiều nghĩa, cao thấp tùy trình độ tu học, hiểu biết của mỗi cá nhân, nên được gọi là vô lượng nghĩa.

Người tu tập theo đạo Phật, nên cố gắng thực hành lời dạy: "tâm khẩu nhứt như", mới có thể tiến bộ được. Con người thường hay giữ gìn lời nói một cách khách sáo, một cách hoa mỹ, một cách đẹp đẽ, để tránh mích lòng người nghe. Tuy chưa hoàn toàn đúng chánh pháp, nhưng cũng giúp giữ gìn khẩu nghiệp. Nếu những lời nói như vậy phát xuất từ tâm địa tương ưng thì quí hóa biết là dường nào, đó chính là chuyển được ý nghiệp luôn rồi đó vậy. Ðây mới chính là trọng tâm của việc tu tâm dưỡng tánh. Người tu tậptiến bộ là người càng ngày càng thấy an lạc trong tâm hơn, càng ngày càng thấy mình gần gũi với mọi người hơn, cho nên ngày càng hòa nhã với mọi người chung quanh hơn.

Kính thưa chư đạo hữu,

Chúng tôi vô cùng cảm niệm quí đạo hữu đã góp ý xây dựng trên diễn đàn trong thời gian qua. Chúng tôi thường không trả lời ngay các thắc mắc được nêu lên, bởi các lẽ sau:

Cần thời gian để lắng nghe, xem lại vấn đề, đọc kỹ lại điều mình đã viết, kiểm soát lại tư tưởng của mình.

Cần kiểm soát tâm của chính mình, để khỏi làm động tâm của người khác.

Cần thời gian để câu chuyện lắng dịu, mọi việc được sáng tỏ, mọi người được bình tĩnh, tránh sự tranh cãi vô ích.

Hy vọng những lời bộc bạch trên đây được sự cảm thôngbao dung của chư đạo hữu khắp nơi, không tạo ra một đợt sóng nào khác về các vấn đề đã qua. Quá khứ đã qua rồi, chúng ta nên cho qua luôn và thảo luận các đề tài khác bổ ích hơn cho việc tu học. Ðược như vậy, chúng tôi vô cùng cảm tạthành tâm đãnh lễ chư thiện tri thức bốn phương.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính thư,
Cư-sĩ Chính-Trực





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8716)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9154)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 10072)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 10252)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11113)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9089)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9553)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8094)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9346)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 11393)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránhđề phòng không kịp.
(Xem: 8763)
Tu hành là tu cái gì? Đơn giản nhất, then chốt nhất, chính là buông bỏ. Nhìn thấu không cần phải tu, buông bỏ thì bạn tự nhiên liền nhìn thấu, vì vậy chính là tu buông bỏ, ta phải buông bỏ không ngừng
(Xem: 9132)
Cầu siêu chỉ là một sức mạnh thứ yếu, không phải là sức mạnh chủ yếu. Vì thời gian chủ yếu để tu thiện, làm thiện là thời gian khi người đang còn sống
(Xem: 17565)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 12235)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 26211)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 9594)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 9450)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 10037)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 11420)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 9756)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 10308)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 13739)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 16050)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15681)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18722)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19149)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18965)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 13897)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19264)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 11762)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23261)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 18378)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 8756)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 27136)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 20029)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15344)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15558)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26878)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 16437)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19464)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19841)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19985)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18676)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 32568)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 20326)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 46003)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 6907)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22782)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 24435)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39349)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 20589)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19936)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 40853)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 18697)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 18526)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 9246)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14255)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 18228)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 17710)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant