Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Lưỡng Đại Bổn Sơn

11 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12023)
1. Lưỡng Đại Bổn Sơn

THIỀN TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyên tác: Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
Chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu – Úc Châu ấn tống 2008

Chương hai: 
Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ 

III. Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ

III.1 Lưỡng Đại Bổn Sơn

III.1.1 Tào Động Tông Không Có Tổng Bổn Sơn

Tông Tào Động đặc biệt chỉ có hai Đại Bổn Sơn cũng có lúc gọi là Lưỡng Đại Bổn Sơn hay gọi tắt là Lưỡng Sơn, không gọi là Tổng Bổn Sơn, Biệt Cách Bổn Sơn hoặc Bổn Sơn. Có tất cả 15.000 ngôi chùa thuộc hai Đại Bổn Sơn nầy, cho nên cũng có thể nói rằng chỉ có một Tông Tào Động mà thôi, không có phái riêng như trường hợp của Tịnh Độ Chơn Tông. Tông Tào Động là một Giáo Đoàn lớn đại biểu trong các Tông phái Phật Giáo Nhật Bản, trong khi đó Tịnh Độ Chơn Tông có tất cả 10 phái nhỏ như: phái Otani, phái Honganji, phái Takada v.v... Nếu so sánh với các Tông phái khác, Tông Tào Động dù không có phái song cũng có thể gọi chung là Tông, mà hai Đại Bổn Sơn được xem là trung tâm bậc nhất, có khoảng 15.000 ngôi chùa chung quanh, đặc biệt không chia một phái nào cả.

Hai Đại Bổn Sơn: chùa Vĩnh Bình ở Huyện Fukui, phường Fukuiji và chùa Tổng Trì ở huyện Kanagawa, thành phố Yokokamawa, Hạc Kiến. Nếu Chùa Vĩnh Bình là nơi phát xuất của Tông Môn, là Đại Bổn Sơn có chiều dài lịch sử lâu đời, thì Chùa Tổng Trì chính là nơi phát triển của giáo đoàn, là cơ sở Đại Bổn Sơn vô cùng to lớn.

III.1.2 Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự

Chùa Vĩnh Bình, Đại Bổn Sơn Kiết Tường Sơn của Tông Tào Động tọa lạc ở Ba Đa Dã Nghĩa Trọng, huyện Fukui, quận Yoshida, phố Eheji Chí Tỉ, do Thiền Sư Đạo Nguyên khai sơn vào năm Khoan Nguyên nguyên niên . Thưở ấy, Thiền Sư Đạo Nguyên rời chùa Hưng Thánh, trong rừng sâu của Kyoto ra Việt Tiền (Etsugo), lưu trú tại Chùa Kiết Phong và Chùa Tản Tùng Phong. 
Tháng 7, năm Khoan Nguyên thứ hai, Ngài bắt đầu xây dựng Chùa Tản Tùng Phong Đại Phật Tự cho đến tháng 6 năm Khoan Nguyên thứ 4 đổi Đại Phật Tự thành Vĩnh Bình Tự. Tháng 11 năm Bảo Trị thứ 2 đổi Tản Tùng Phong thành Kiết Tường Sơn, bởi vì Thiền Sư Đạo Nguyên cho rằng Vĩnh Bình chính là phương danh truyền thừa chánh pháp thiết thực từ Đức Thích Tôn, từ đó trở thành Tổng Bổn Sơn của Phật Giáo Nhật Bản, một đạo tràng trang nghiêm, lợi lạcvĩnh cữu của Thiền.

Bao bọc ba bên Chùa Vĩnh Bình là núi. Có con sông nhỏ nước chảy êm đềm trông giống như một cảnh tiên ở phía nam. Vườn chùa rộng khoảng 330.000 mét vuông (100 mẫu), trong đó có tất cả 70 cơ sở, xây dựng khang trang. Mô hình kiến trúc Chùa gồm có Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Tăng Đường, Khố Viện, Dục Thất, Đông Ty và Thất Đường Già Lam. Ngoài ra còn có Thừa Dương Điện (nơi thờ Thiền Sư Đạo Nguyên), Chúng Liêu (chỗ đọc sách của học Tăng), Tiếp Tân (nguyên thỉ là nơi tiếp khách, bây giờ là nơi cư trú của chư Tăng đến tham học), Bất Lão Các (phòng trụ trì). Ở chùa Vĩnh Bình nơi ở của vị Trụ Trì gọi là Bất Lão Các, Diệu Cao Đài (phòng của vị trụ trì tiếp khách quý), Đại Quang Minh Tạng nơi gặp gỡ của Tín Đồ với vị Trụ Trì. Nơi đây có phòng rộng để thuyết pháp. Tản Tùy Các (phòng rộng để tham bái), Bồ Đề Tọa (chỗ lãnh đạo của vị Tăng, nơi đề xướng việc giảng nghĩa tu hành cho các vị Tăng), Từ Đường Điện (nơi để thờ bài vị của Tín Đồ), Xá Lợi Điện (nơi để cốt của Đàn Tín Đồ), Kiết Tường Các (phòng nghiên cứu tu học của Tín Đồ), Nhứt Hoa Tạng (kho để đồ quý báu), Kinh Tạng (tất cả các Kinh và các Kinh bản Thiên Hải để ở đây), Sắc Sứ Môn ( nơi đón khách, cửa ra vào của vị Trụ Trì). Ngoài ra còn có lầu chuông và những tòa nhà khác nữa. Diện tích toàn ngôi vườn là 450 mẫu. Trải qua lịch sử 700 năm, không biết bao nhiêu lần tang thương tuế nguyệt, hỏa tai, chiến loạn, nhưng ngôi chùa vẫn còn đó như dương cao ngọn pháp đăng bất tuyệt, được 70 đời Trụ Trì. Tại đó, dòng thời gian vẫn trôi qua như mây nước mênh mang lưu ảnh hơn 200 đời sống tu hành phạm hạnh.

Có tấm hoành “Tào Động Tông Đệ Nhất Đạo Tràng”, do Thiên Hoàng Hậu Viên Dung thời Bắc Triều đời thứ 5 , sắc chỉ, treo trên lầu của Sơn Môn (Tam Quan). Huy hiệu của chùa là Thế Long Đảm cũng là huy hiệu của Komazawa Gakkuen, được làm từ thời Meiji, mà Thế Long Đảm thuộc Cửu Ngã Long Đảm (Koga Rindo), chính là ngôi nhà mà Thiền Sư Đạo Nguyên sanh ra. Bảo vật trân quý của Chùa là bút tích “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi” của Thiền Sư Đạo Nguyên, ngày nay trở thành quốc bảo. Có một Đại Hồng Chung đúc vào năm Gia Lịch (Karyaku) thứ 2 bây giờ trở thành di sản văn hóa của quốc gia. Chùa còn lưu giữ 572 bản khắc gỗ của 95 quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, gọi là “Thiên Hải Bản Nhứt Thiết Kinh“ gồm 6323 quyển. Ngoài ra, còn có bức họa “Thú Dã Thâm U Bút Tứ Quý Hoa Điểu Đồ” (thú rừng u tịch vẽ hoa chim bốn mùa) và nhiều tranh họa trong bốn mùa khác nữa. Từ đó đến nay, có rất nhiều vị Tăng hoặc từ nước ngoài đến hoặc ở trong nước thuộc Tông Tào Động đã du hành khắp nơi để hoằng hóa khai sơn và khuyến tấn mọi người nổ lực tu hành và sống Đạo, do vậy phải công nhận rằng Chùa Vĩnh Bình chính là ngôi tự viện nhiệm mầu để mọi người đến tu học, tham thiền, mà cửa Chùa luôn luôn rộng mở đón chào những ai đang cần tu học.
Ở Tokyo, có Biệt Viện thuộc Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự tên là Tokyo Betsuen, Trường Cốc Tự Chokokuji, Tokyoto Minatonku Nihimafu. Tại Nagoya, có Nagoya Biệt Viện, Hộ Quốc Viện (Gokokkuin), Nagoyashi, Higashinku Boikecho, thuộc Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự.

Ngoài ra, còn có các trung tâm Học hiệu như trường Komazawa Gakkuen (Komazawa, Nữ Đại Học ngắn hạn, trong đó có Ấu Trỉ Viên = Vườn Trẻ); Komazawa Gakkuen Nữ Trung Học đệ nhị cấp; Komazawa Nữ Đại Học ngắn hạn (2 năm); Komazawa Nữ Đại Học nằm tại Tokyoto, Waragiyoshi, Itahama), những nơi nầy dành riêng cho nữ sinh đủ mọi ngành (tất cả các Gakkuen = học viên).

III.1.3 Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự

Đại Bổn Sơn của Tông Tào Động là Chùa Chư Nhạc Sơn Tổng Trì, Kanagawaken, Yokohamashi, khu Hạc Kiến, Hạc Kiến, do Thiền Sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn (Keizan Jokin) khai sơn. Trước đó, là chùa nhỏ tên là Chư Khâu Quán Âm Đường của Luật Sư Đinh Hiền (Joken) đệ tử của Tông Chơn Ngôn cúng, sau đó tên Chùa đổi theo tên núi gọi là Tổng Trì Tự. Chùa thành lập năm Nguyên Hưởng (Genko) nguyên niên vốn thuộc huyện Ishikawa, quận Fugeshi Monmaecho. Đến năm Minh Trị thứ 31 Chùa bị cháy, cho nên thiên di đến địa điểm hiện tại vào năm Minh Trị thứ 40 có khuôn viên rộng 300.000 mét vuông (độ khoảng chừng 100 mẫu) và có 10 tòa nhà được xây dựng. Nơi đây có 200 học tăng tu hành thường nhật tạo nên không gian Thiền rất nổi bật ở vùng Kanto. Ngoài ra, hoạt động của Chùa cũng có tính cách thế giới nữa. Nét kiến trúc của Chùa mô phỏngphục hoạt theo nét Chùa xưa ở Kanagawaken. Được gọi là Tổ Viện Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự của Tông Tào Động vì thờ Tổ Sư Oánh Sơn ngay gian trước cửa vào. Chùa thật trang nghiêm, u ẩn, yên tĩnh, có nhiều Vân Thủy Tăng (Tăng hành cước) lui tới để lễ bái và tưởng niệm Tổ khai sơn.

Ngược lại với Chùa Vĩnh Bình, Chùa Tổng Trì nằm ở địa phương Hạc Kiến, ngay trong khu đô thị của phố Yokohama có tính cách quốc tế, nơi được nhiều người đến, nhưng tầm quan trọng và ý nghĩa của hai Đại Bổn Sơn, phải nói rằng, đều có ảnh hưởng tốt đẹp như nhau. Kiến trúc Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Tăng Đường, Khố Viện, Dục Thất, Đông Ty..., của Chùa Tổng Trì đều mang phong cách đặc biệt. Duy chỉ có Pháp Đường của Tổng Trì đặc biệt gọi là Tổ Sư Đường có kiến trúc vĩ đại với chiều dài 55,5 mét, chiều ngang 47,2 mét, có một tầng trên và một tầng hầm nằm dưới mặt đất, tổng diện tích 6.611 mét vuông, có trải 1000 chiếc chiếu (Tatami), chiều cao từ dưới sàn nhà đến đòn dông là 36 mét. Gian giữa thờ vị khai sơn Tổ Sư Oánh Sơn. Hai bên thờ chư liệt vị Tổ Sư kế thừa, mà đây cũng là giảng đường thuyết pháp thật là to lớn. Ngoài ra, còn có Truyền Đăng Viện (nơi thờ Ngài Oánh Sơn Thiền Sư), Phóng Quang Đường (nơi thờ bài vị của Đàn Na Tín Đồ), Thường Chiếu Điện (nơi thờ cốt của Đàn Na Tín Đồ), Ngự Linh Điện (nơi thờ Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng và 8 đời Thiên Hoàng của Nam Triều). Tử Vân Đài (phòng khách để Trụ Trì tiếp các vị Trụ Trì cũng như Phật Tử Tín Đồ trên toàn quốc, tiếp các công chức). Khiêu Long Thất (phòng vị Trụ Trì tiếp khách), Thiên Chơn Các (phòng khách), Đài Phụng Quán (nơi ở tạm của khách), Tam Tùng Các (nơi nghiên cứu của Phật Tử Tín Đồ). Chúng Liêu, Bảo Vật Điện, Chung Cổ Lầu, Sắc Sứ Môn v.v...

Năm Nguyên Hưởng thứ 2 đời thứ 96, Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng Chùa được vua ban hiệu là “Nhật Bản Tào Động Sắc Tử Xuất Thế Chi Đạo Tràng”. Tông Tào Động có tất cả 15.000 ngôi chùa trực tiếp thuộc Chùa Tổng Trì của Ngài Oánh Sơn Thiền Sư.

Vật trân quý của chùa là nét bút “Tổng Trì Tự Trung Hưng Duyên Khởi” của Oánh Sơn Thiền Sư cũng là bảo vật văn hóa quốc gia. Ngoài ra, còn có bức tượng Thiền Sư Oánh Sơn, do ông Maeda Richa họa. Còn có bức họa như Lạc Tú Đại Pháp Bị, Cao Ly Phật Họa Đề Bà Đạt Đa rất quý, là những bảo vật di sản văn hóa và nhiều vật quý giá không thể tả hết, ngày nay tất cả đều được cất giữ trong Bảo Vật Điện.

Huy hiệu của chùa là 57 cây ngô đồng, không ai biết nguyên doxuất xứ thế nào, song được bảo tồn kỹ lưỡng. Truyền thuyết cho rằng Thiền Sư Oánh Sơn thọ nhận pháp y từ Ngài Nga Sơn tại chùa Tổng Trì cho nên mô phỏng theo màu “Đồng Trúc Lăng Cáp Sắc”, tức là màu trà nhạt, lông chim bồ câu. Cũng có truyền thuyết khác cho rằng Tổng Trì Tự đã được sắc phong từ đời Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng

III.1.4 Chùa có các Biệt Viện

- Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Tổ Viện thuộc Ishikawaken, quận Phụng Chí, Môn Tiền Đinh, huyện Ishikawa, 
- Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự Bắc Hải Đạo Biệt ViệnPháp Nguyên Tự - Bắc Hải Đạo, quận Tùy Tiền, phố Tùng Tiền, Bắc Hải Đạo (Hokkaido) 
- Truyền Tẩu Viện (Densoen), nơi làm việc tại Cảng Khu, Chi Ái Thạch Đinh,Tokyo 
- Học Hiệu Pháp Nhơn Tổng Trì Tự Gakkuen gồm có: Tam Tùng Ấu Trỉ Viên, Hạc Kiến Nữ Tử Trung Học Hiệu, Hạc Kiến Nữ Tử Cao Đẳng Học Hiệu, Học Kiến Nữ Tử Thành Nhơn Học Hiệu, Hạc Kiến Nữ Tử Đoản Kỳ Đại Học, Hạc Kiến Đại Học. Tổng Trì Tự Bảo Dục Viên, Hạc Kiến Tổng Hợp Bệnh Viện, Mẫu Tử Liêu, Hội Tham Thiền ngày Chủ Nhật v.v... với mục đích phụng sựxây dựng một xã hội tự do bình đẳngmọi người được cống hiến.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18421)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19896)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33477)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34600)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54593)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37806)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21196)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17949)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63758)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49753)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16420)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14517)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22531)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57078)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29062)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33373)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38439)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31284)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13943)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14656)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12678)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14864)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19234)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12704)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30472)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11873)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30743)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29444)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30664)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31278)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37157)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32313)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23736)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12254)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14247)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14117)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34020)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27775)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28690)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28071)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25730)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22493)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34530)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27399)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28436)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant