Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Truyền thừa

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10243)
12. Truyền thừa

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

TRUYỀN THỪA 

Phật dạy 4 ân và cách báo 4 ân. Cách báo ân toàn triệt nhất trong các cách là làm sao tu cho được CHÂN THẬT BA-LA MẬT. Tu Chân thật ba-la-mật hay Quán tâm địa là một cách nói khác chỉ cho việc sống trở lại với tâm chân thật của mình, kinh Niết Bàn gọi tâm đó là PHẬT TÁNH, luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là CHÂN NHƯ, kinh Pháp Hoa gọi nó là TRI KIẾN PHẬT. Tất cả mọi pháp môn từ niệm Phật, trì chú, tham công án … mà chư Phật Tổ đã dạy, đều cốt cho người tu nhận lại tâm này. Chỉ do căn khí của người cạn hay sâu mà chư vị phương tiện chỉ thẳng hay gián tiếp.

Sống trở lại với tâm đó, cũng là sống lại được với TRÍ TUỆTÂM TỪ của chính mình. TRÍ TUỆ nói đây là trí tuệ thấy các pháp đúng như chính nó, nhận ra được qui luật đang chi phối thế giới này. Người xưa nói “Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống”. Biết, là biết được qui luật đang chi phối thế gian, theo đó mà sống, thì mọi thứ hài hòa yên ổn

Như chết, là lẽ tất nhiên mà ai cũng phải qua, chỉ là sớm hay muộn. Song nếu mình chấp nhận nó như một việc hiển nhiên, thì cái chết không làm mình khổ. Nhưng nếu mình không chấp nhận, cứ chạy vạy níu kéo, níu kéo một thứ không thể níu kéo, thì khổ vô vàn. Một chuyện hiển nhiên trước mắt còn khiến mình khổ như vậy, huống là những chuyện mình chưa thấu được. Vì thế, nắm được qui luật sống ở đời, là cửa giúp mình và người hết khổ.

Thấy người đói, cho ăn. Thấy người thiếu, giúp đỡ v.v.. những việc làm đó rất tốt, nhưng giúp ngặt chứ không ai giúp nghèo. Không thể cho họ suốt đời. Vì không khéo việc này sẽ sinh tiêu cực mà cũng không thể kéo lâu dài hay rộng rãi. Vì thế, cho tiền của, không bằng giúp cho họ có một công việc để tự lo sống. Tương tự, một khi mình hiểu được lý thật của cuộc đời, đủ năng lực để tự đi và chỉ cho người khỏi sụp hầm sụp hố thì việc đó phải lợi ích hơn là chỉ biết làm phước trao tặng. Mình trao tặng cho người mà người không đủ phước để hưởng thì có khi tai họa cũng liền kề. Nói vậy không phải là xúi mình đừng trao tặng. Nó là phương tiện cần thiết cho việc tặng pháp về sau. Nhưng thực tình, nếu phước không đủ, mình có cho cũng không tới tay, có tới tay cũng bệnh hoạn nạn tai cho tiêu sạch. Thành khi mang tiền giúp đỡ, một số vị hay khuyên người khác niệm Phật, hoặc khuyên người trích tiền mình đã cho ra cúng dường hay bố thí lại ít nhiều, hoặc khuyên người sống thiện, để giữ cái phước về sau. Đó là chỉ cho người con đường để người tự đi. Họ có phước rồi, không có mình họ cũng gặp được người giúp đỡ hay tự làm ăn phát đạt. 

Ngoài ra, trí tuệ Phật có hiển phát thì tình thương rộng lớn mới hiển bày. Phải có tình thương đối với muôn người, mới khiến mình không bo bo cái gì cũng chỉ hạn cuộc trong mình và gia đình mình. Tình thương này sẽ giúp mình tránh được những cái nhỏ nhặt không đáng trong cuộc sống. Cũng là thứ khiến mình mở lòng rộng rãi với mọi người, dù đó là người mình không ưa. Nó là cái nhân để mình có an vui trong hiện đời và mai sau. Chính vì thế, Phật nói tu Chân thật ba-la-mật mới trả hết các ân mình đã mang trong đời

Đó là nói trên mặt hiện tại, nói về lâu dài, hiện nay mình còn có kinh, luật, luận, ngữ lục của các Tổ để đọc, học … là nhờ sự nối tiếp truyền thừa của các bậc đi trước. Đây là phần rất quan trọng đối với người tu. Vì thế, với người TU PHƯỚC cầu quả báo Nhân Thiên, bố thí phápcông đức nhiều hơn bố thí phẩm vật là vậy. Với người TU PHẬT, đang thực hành hạnh nguyện Bồ tát, việc truyền bá lưu thông càng quan trọng. Thành cuối kinh, khi nào Phật cũng căn dặn đệ tử phải lưu thông truyền bá các kinh, như kinh đây nói “Khiến kinh này được lưu truyền rộng rãi …”. Lưu truyền, là truyền tay nhau kinh này không phải trong hiện đời mà cả về sau. Đó là việc lưu truyền dễ làm và đơn giản nhất. 

Để việc truyền thừa được rộng rãi hơn nữa, cần có vốn ngôn ngữ tối thiểu để dịch thuật kinh - luật - luận của Phật Tổ. Như kinh này vốn bằng tiếng Phạn, ngài Bát Nhã đời Đường dịch ra Hán văn, giờ mới có bản chữ Hán để mình dịch ra tiếng Việt mà cùng nhau chia xẻ cái hay của nó. Với loại kinh Nhân quả, tức những kinh không đòi hỏi phần tâm chứng, thì chỉ cần vốn ngôn ngữ là đủ, nhưng với những bộ kinh như Lăng Nghiêm, Lăng Già, luận Trung quán v.v… chỉ có vốn ngôn ngữ không thì chưa đủ. Thành học rồi còn phải tu. Tu rồi còn phải chứng nhập tự tâm. Tâm có được thanh lọc thì trí tuệ mới phát, mới khế hợp được những điều kinh nói, mới biết dụng pháp đúng duyên. Cần giảng pháp thì giảng pháp, cần xây chùa thì xây chùa, cần chú thuật thì dùng chú thuật v.v… Tùy duyên dụng pháp mà không mất mình, không khiến người và mình bị đọa lạc trong mê tín hay hình tướng. Đó là góp phần khiến ngọn đèn của Phật Tổ được sáng mãi. Không thì có khi phát tâm rất mạnh, nhưng việc làm của mình trở thành nửa mùa ...

Luận Đại Thừa Khởi Tín, được Tổ Hoa Nghiêm là ngài Hiền Thủ luận giải rất kỹ. Đại sư Hám Sơn thì nói “Yếu chỉ nhập pháp giới của tông Hoa Nghiêm lấy luận này làm cửa nhập pháp giới”. Nó là bộ luận rất quan trọng đối với người tu Đại thừa. Nó giúp người tu phát khởi niềm tin đối với Đại thừa, mở ra con đường Bồ tát, giúp người tu trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình. Nhưng có người lại cho nó là tà ma ngoại đạo. Không phải vì họ rắp tâm muốn phá hoại Phật pháp, mà vì việc tu hành chưa đạt được chỗ cần đạt, chưa thực chứng được cảnh giới mà luận nói, nên không nhận được phần lý lẽ thâm sâu BẤT BIẾNTÙY DUYÊN luận đã nêu. Chẳng qua vì lực dụng chưa đủ, nên thay vì hộ pháp, lại trở thành kẻ phá pháp

Cho nên, với người tu, CÔNG PHU TU HÀNH là quan trọng. Nó là thứ khiến mình phát trí tuệ, giúp mình nhận định được cái gì đúng, cái gì sai, cái gì tà, cái gì chánh để mà truyền thừa. Không có trí tuệ, Thầy Tổ nói một đường, mình diễn lại một nẻo. Thứ kẻ gian truyền thừa, mình cũng cho là Thầy Tổ mình nói. Cái đúng của người đi trước mình vô không được. Cái sai của người đi trước mình cứ đó mà theo. Thiếu trí tuệ nên mình không đủ năng lực nhận định vấn đề cho rõ ràng ... khiến nhiều việc đáng tiếc xảy ra. 

Bộ kinh này Phật giảng cho chư vị trưởng giả. Nhưng thật là cho tất cả mọi người. “Giàu sang mà chịu học đạo là khó” nhưng Phật vẫn giảng giáo Nhất thừa cho chư vị nghe, thì biết căn lành của chư vị rất lớn. Có điều vì hiện đời quá sung túc thành chư vị quên mất nguồn căn của mình. Không phải lúc Phật còn tại thế mới có những vị trưởng giả như vậy. Hiện đời đây cũng vẫn có. Không phải chỉ hiếu hạnh hết mực, cúng dường Tam bảo rất nhiều, cứu giúp người nghèo vô số mà chư vị còn nghiên cứu kinh sách, nghiên cứu không phải cho riêng mình mà còn giúp người khác nghiên cứu, rồi tự tâm dừng đi tham sân si của chính mình. Có người còn bỏ tất cả để tu hành. Chư vị không những chỉ đến chùa học đạo mà còn biết sống đạo, là cái nhân để Phật pháp được truyền thừa rộng rãi và dài lâu. Thành đừng nghĩ phải đứng ở cương vị giảng sư mình mới là kẻ nối tiếp truyền thừa của Phật Tổ. Đừng nghĩ phải 5 năm 10 năm nữa, mình mới thành kẻ truyền thừa. Cũng đừng nghĩ kẻ truyền thừa chỉ nằm trong một vài vị có chức sắc. Tất cả Phật tử, dù tại gia hay xuất gia, đều là kẻ truyền thừa của Phật Tổ, nếu hiện tại mình sống tỉnh giác, không để tham sân si làm chủ, luôn vì lợi ích của muôn người. Cứ một NIỆM được như thế là một niệm mình đang truyền thừa ngọn đèn của Thầy Tổ. NIỆM NIỆM như thế là niệm niệm đang truyền thừa. Không có sự truyền thừa nào hơn sự truyền thừa đó. Thực hiện như vậy là mình đang tu pháp CHÂN THẬT BA-LA-MẬT mà Phật nói đây. Đó là cách báo ân cha mẹ và Thầy Tổ cũng như tất cả mọi người được trọn vẹn nhất, cũng là góp tay khiến Phật pháp được lưu truyền rộng rãi và dài lâu.

Tp. HCM ngày 31.3.2007 
Chân Hiền Tâm
 

01 Với loại BẤT ÐỊNH NGHIỆP thì vẫn thay đổi được bằng duyên phúc đứcviệc thiện của chính mình.
02 Những câu trong ngoặc kép đều là phần trích dịch.
03 Dịch từ phẩm Báo Ân, kinh Ðại Thừa Bản Sanh Tâm Ðịa Quán. Ðại Chánh Tạng tập 3.
04 Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 12. 
05 Chỉ thời gian và pháp tu của hàng Thanh văn. Thời gian thì có giới hạn, nhanh nhất là ba đời, chậm nhất là trăm kiếp. Pháp tu thì chỉ có thiền quán, không phải dâng hiến thứ gì cho ai. 
06 Tu di là vua của các ngọn núi, lớn nhất và toàn bằng châu báu.
07 Căn : Mắt, tai, thân v.v… 
08 Căng-già là sông Hằng, một trong ba con sông lớn ở Ấn độ.
09 5 cõi : Trời, người, súc sanh (thú vật), ngạ quỉ, địa ngục
10 Trong Thám Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký, Tổ Hiền Thủ nói “Theo luận Ðại Trí Ðộ, Nhị thiền gọi chung là Quang Âm”. 
11 Trích Ðất Việt.
12 Phần tiếp nói về cảnh giới tu hành của hàng Bồ tát Thập địa, và cảnh giới Tứ trí : Ðại viên cảnh trí v.v… Ðây không trích ra.
13 Cây bồ-đề được nói trong kinh Hoa Nghiêm
14 Mỗi loại ba-la-mật đều có 10 loại. Ðây lược bớt để dễ nhận ý chính.
15 Ðây là nói đến thân dư báo của Phật, là thị hiện của Phật pháp thân, như Phật bị quả báo mã mạch v.v…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10618)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11100)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9588)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10484)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12084)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9746)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10252)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10270)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19225)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14662)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24378)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15435)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10394)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21520)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19338)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11398)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18767)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9302)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15952)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25722)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37927)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19656)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18759)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14324)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20169)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9553)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14415)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35652)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10705)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19778)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13410)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20301)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10658)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9663)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9239)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8528)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9790)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11244)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8344)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14149)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9953)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15269)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12633)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11382)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12126)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11090)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36475)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9000)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17332)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10513)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12237)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13698)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9198)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24921)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11691)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10365)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14584)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13056)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant