Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Ân phụ mẫu

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10278)
08. Ân phụ mẫu

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN PHỤ MẪU 

Này Thiện nam tử! Ân phụ mẫu là: Cha có từ ân, mẹ có bi ân. Bi ân của mẹ, nếu ở thế gian một kiếp thuyết cũng không hết. Ta nay vì ông chỉ nói ít phần. Giả như có người vì cầu phúc đức lấy chiên đàn trầm hương lập các phòng xá, dùng muôn báu trang nghiêm v.v… cung kính cúng dường cho 100 đại Bà-la-môn tu tịnh hạnh, 100 đại thần tiênngũ thông, 100 thiện hữu v.v… nhất tâm cúng dường như thế mãn đến ngàn kiếp, không bằng một niệm trụ tâm hiếu thuận, dùng chút sắc vật cúng dường bi mẫu, tùy thời cung phụng hầu hạ. So với công đức trước, dù có trăm ngàn vạn phần cũng không sánh được.

NHẤT TÂM, là một lòng hướng về đó. 

MỘT NIỆM TRỤ TÂM HIẾU THUẬN là có tâm hiếu thuận dù chỉ một tíc tắc ngắn ngũi.

DÙ ... CŨNG KHÔNG SÁNH ĐƯỢC, thì biết cái nhiều phải thua cái ít. Tức dùng một chút phẫm vật phụng dưỡng hầu hạ cha mẹ, phước đức nhiều gấp bội so với việc dùng trân châu mã não cúng dường cho các thần thánh ngàn kiếp. Cho nên, muốn cầu phú quí phúc lộc không gì bằng thật lòng phụng dưỡng cha mẹ cho đầy đủ. Phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ thì phúc lộc dư giả là chuyện đương nhiên.

Phần sau là nêu lý do vì sao phụng dưỡng cung kính cha mẹ lại được phúc lộc như thế. 

Bi mẫu thế gian nghĩ tưởng đến con không gì sánh được. Từ lúc thọ thai cho đến mười tháng, đi đứng nằm ngồi chịu các khổ não không thể nào nói. Dù được bao thứ dục lạc, y phục, đồ ăn thức uống cũng không sinh thích. Một lòng lo lắng nghĩ tưởng đến con. Khi sắp sinh sản, phải chịu các khổ ngày đêm không dứt. Chẳng may sinh khó, như trăm ngàn dao cắt xẻ. Bằng không khổ não, người thân kẻ thuộc vui vẻ vô cùng. Như kẻ bần cùng được châu như ý. Nghe tiếng của con như nghe âm nhạc. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi. Ngực mẹ tuông suối cam lồ. Ân trưởng dưỡng che khắp trời đất. Đức thương yêu bao la khó bì. Chỗ cao ở thế gian không gì hơn núi, ân của bi mẫu vượt cả Tu di. [06] Cái trọng ở thế gian đại địa là đầu, ân của bi mẫu còn hơn cả đó. 

Đây là nói về BI MẪU. Vì những việc nêu ra đó mà con cái khó đền đáp cái ân của bà.

Nếu nam nữ nào bội ân không thuận, khiến cha mẹ sinh niệm ai oán, mẹ phát lời ác con liền theo đó mà đọa, có khi rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sự mau chóng ở thế gian không gì bằng gió mạnh, biểu hiện của ai oán cũng nhanh như thế. Tất cả Như Lai cho đến tiên nhân có đủ ngũ thông v.v… đều không thể cứu. 

Đây, nói về cái quả mà con cái phải chịu khi khiến cha mẹ mình sinh niệm ai oán. Phật trời không thể cứu. Thật ra, thứ gì ở đời cũng có nhân duyên. Ngày nay con cái không hiếu thuận với mình, một phần là do cái nhân mình đã gây ra trong kiếp trước, không hoàn toàn lỗi ở con cái. Nhưng hiện tại nếu nó không hiếu thuận, nó lại phải chịu cái quả của việc không hiếu thuận đó. Nhân quả trói buộc người ta theo kiểu đau khổ như vậy. Thành đã thật là bi mẫu, thương con, mình nên tỉnh giác vào những lúc thế này. Nếu con lỡ khiến mình buồn, thì biết đó là do cái nhân mình đã gây ra trong quá khứ. Cố gắng tỉnh giác, buông đi những niệm oán hận sầu khổ. Bình tâm được thì nghiệp cũ sẽ qua. Phước đức đủ rồi, dù con bất hiếu bao nhiêu, cũng sẽ trở thành ngoan hiền hiếu mực. Còn cứ để mọi thứ theo dòng nghiệp lực, giận lên là buộc miệng rủa con, thì không phải chỉ có con khổ mà mình cũng khổ lây. Vì một lời ai oán của mình, con liền đọa địa ngục v.v… Đừng nói địa ngục, chỉ cần hiện đời nó nghèo túng khốn khổ hay mắt bệnh hiểm nghèo là mình đã đủ đứt ruột không yên. Thành cần phải cẩn thận với tâm thứckhẩu nghiệp của mình. 

Nhiều khi giận quá, nói cho hả giận, nhưng cái hả giận của mình có khi rút lại không kịp. Thành giận bao nhiêu cũng gắng tỉnh giác, đừng để tâm thức phát khởi. Người gặp họa mình cũng họa theo. 

Có những chuyện, mình tưởng đó là bình thường, nhưng đọc kinh đọc luận rồi mới biết nó không bình thường chút nào. Song kinh luận là thứ phải đủ phước báu, mình mới nhận được. Phật nói “Gặp được kinh luận là khó”. Không đủ phước báu, không gặp được kinh luận mà đọc. Không đủ phước báu, kinh luận có tới tay, cũng không muốn đọc. Thành gặp được kinh luận để đọc, hiểu, và áp dụng vào đời sống thường nhật của mình là một phước báu rất lớn. Thành bố thí pháp là loại bố thícông đức lớn nhất trong các loại bố thí.

Nếu nam nữ nào theo lời mẹ dạy, vâng thuận không trái, chư thiên hộ niệm phúc lạc vô biên. Nam nữ như thế là hạng trời người tôn quí. Bằng không cũng là Bồ tát vì độ chúng sanh, hiện làm nam nữ để khiến mẹ cha được nhiều lợi ích

Thuận theo lời cha mẹ không làm cha mẹ buồn lòng sẽ được phúc lạc vô biên. Nhưng nếu cha mẹ bảo mình giết người thì sao? Theo nhân quả mà nói thì một nhân, đủ duyên sẽ cho ra một quả tương ưng. Phật đã nói có, thì cái quả từ cái nhân nghe lời ấy nhất định sẽ có. Do sự hiếu thuận, cái phúc ấy vẫn có. Nhưng bù lại, cha mẹ giết người và mình giết người lại có cái quả của việc giết người. 

Một lần, có người hỏi Hòa thượng “Cha mẹ con muốn ăn cá mà phải làm khi nó còn sống. Con học đạo, biết việc đó không tốt, nhưng trái ý thì cha mẹ buồn, mang tội bất hiếu. Vậy nếu làm thì có tránh được báo nghiệp sát sanh không?”. Ở đây tôi không thể lập lại nguyên văn lời Hòa thượng đã nói, cũng không nhớ nó nằm trong cuốn băng nào để trích được nguyên văn câu trả lời, chỉ xin ghi lại ý chính mà Hòa thượng đã dạy : Nếu vì chữ hiếu thì làm cho cha mẹ ăn. Nhưng không vì cái hiếu đó, mà nghiệp quả sát sanh có thể tránh được. Có nhân rồi, đủ duyên quả vẫn xảy ra. Cho nên, đây Phật nói “Được phúc vô biên”, thì phải hiểu cái nhân NGHE LỜI đó, phải đi liền với một duyên thiện. Còn không, cái phúc ấy không thể trọn vẹn

Cho nên, cái phước lớn nhất của con ngườicha mẹ con cái đồng biết đạo và sống đạo. Có biết đạo thì mới biết cái gì nên tránh, cái gì nên làm. Có biết đạo thì mới biết khuyên cha mẹ không gieo nhân xấu. Con cái cũng không vì những đòi hỏi không đúng của cha mẹ mà phải khó xử hay lãnh những cái quả bất hạnh. Cha mẹ cũng không vì những mong muốn không đúng của mình, khiến đứa con hiếu thuận phải chịu những nghiệp quả không tốt, bản thân mình cũng bị cái quả không hay, làm đau lòng đứa con hiếu hạnh. Đây là lý do vì sao, Phật khuyên chúng ta nên cúng dường Tam bảo. Là để có cái duyên gặp được chánh pháp, hiểu và sống chân chánh, cuộc sống của mình mới hạnh phúc

Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào vì muốn báo ân cha mẹ, trải qua một kiếp, mỗi ngày ba thời cắt thịt của mình dâng hiến cha mẹ cũng không báo nổi cái ân một ngày. Vì sao? Vì khi còn ở trong thai, máu mẹ dưỡng nuôi các căn[07] . Khi ra khỏi thai, sữa mẹ dưỡng nuôi ngàn trăm vạn đấu. Mẹ được vị ngon trước dành cho con. Quần áo đẹp đẽ cũng lại như vậy. Xưa có nữ nhân đi đến nước khác, ôm con vượt sông Căng-già. [08] Chẳng may nước lớn, ôm con lội sông không được. Vì niệm thương con không bỏ, cả hai cùng chết. Do lực thiện căn của từ tâm đó, bà được sinh lên cõi Sắc Cứu Cánh làm Đại Phạm Vương. Từ các nhân duyên trên, bi mẫu có được 10 đức : 

1. Như đại địa : Khi còn trong thai, bụng mẹ là chỗ y tựa cho con, dưỡng con như đất dưỡng cây. 

2. Trải qua các khổ mà vẫn sinh nở.

3. Thường dùng tay mẹ chỉnh lý ngũ căn

4. Tùy thời trưỡng dưỡng con cái : Hạ thì làm mát, lạnh thì mặc ấm, đau thì nuôi cháo v.v… 

5. Khéo nhờ phương tiện mà sinh trí tuệ : Trí tuệ phát sinh từ kinh nghiệm đối với con cái. Biết lúc nào cần nhẹ nhàng, lúc nào cần nghiêm khắc v.v… khiến con được nên người.

6. Dùng anh lạc trang sức cho con : Xưa, ở Ấn Độ, không kể là nam hay nữ, nếu đủ khả năng, đều dùng chuỗi anh lạc trang sức cho mình. Muốn nói mẹ hay dùng mọi thứ đẹp tốt trang sức cho con . 

7. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi an ổn : Mẹ là chỗ che chở khi con còn nhỏ, là chỗ dựa tinh thần khi con đã lớn. 

8. Khéo dùng phương tiện dẫn dạy con thơ : Dạy con hiếu nghĩa, đạo đức làm người v.v… 

9. Dùng lời thiện xả bỏ các ác : Khuyên răn nhắc nhở con trẻ tránh xa các ác nghiệp. Thường những đứa trẻ có những suy nghĩ và hành động hàm hồ như người lớn trong rất dễ thương. 6 tuổi, nhưng con bé có những cử chỉlời nói như bà chủ đầy uy quyền khi nói huyện với chị bếp. Trông thật ngộ nghĩnh đáng yêu. Nhưng mỗi lần con trẻ có những hành động như thế, mà mình vui cười tán thưởng, là mình đang để con trẻ phát triển một nhân bất thiện. Cũng như khi thấy con trẻ dí chết một con kiến hay bẻ cánh con gà một cách thích thú, mà mình không ngăn cản, không giải thích, là mình đang giúp cho nghiệp sát ở con trẻ lớn dần. 

10. Giao phó gia nghiệp cho con.

Trên, Phật kể ra 10 đức mà mọi BI MẪU đều có. Được 10 đức này chính là BI MẪU. Gọi là đức vì 10 việc này thuộc thiện nghiệp, đưa đến quả báo lành. Thường thì nhân cách của một đứa con liên quan đến mẹ nhiều hơn cha, vì sự chăm sóc, gần gũi … nên Phật nêu mẹ có 10 đức. Nếu cha là người săn sóc lo lắng cho con, thì ân đức đó dành cho cha. Hoặc không riêng vị nào. 

Này thiện nam tử! Ở thế gian, thứ gì giàu nhất? Thứ gì nghèo nhất? Bi mẫu còn, là giàu nhất. Bi mẫu không còn, là nghèo nhất. Bi mẫu còn, là trời giữa trưa. Bi mẫu mất, là trời tắt nắng. Bi mẫu còn, là đêm trăng sáng. Bi mẫu mất, là đêm không trăng. Cho nên, các ông cần tăng tu hành, hiếu dưỡng mẹ cha. Phúc đức đó không khác người cúng dường Phật. Phải biết báo ân cha mẹ như vậy.

Ca dao thường nói :
Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết gót con như bùn

Cha nếu là trụ cột vững chắc của gia đình thì khi ông mất, mới thấy cái son hóa bùn này thế nào. Khi cha mất, tôi 12 tuổi. Ngoài những đêm nằm canh quan tài, ruột quặn lên quặn xuống không có lý do, tôi không thấy có gì để buồn hay đáng khóc. Nhưng cậu em 10 tuổi thì khác, nó hình dung “Bà Tiên! cuộc đời mình từ nay khác rồi”. Đúng là mọi thứ đổi khác rất nhiều dù mẹ cố còng lưng lo đủ cho con, để mọi thứ vẫn y nguyên. Nhưng không thể y nguyên, khi quyền lực và tiền bạc là thứ gắn liền với cha. Cha đi nó cũng theo.

Mẹ còn, dù mình lớn bao nhiêu, giấc ăn miếng ngủ, mẹ cũng lo. Mẹ mất, mọi thứ trở thành trơ trụi. Muốn sắm một cái áo, muốn mua một thỏi son … cũng không còn ai để mua ... 

Cho nên, từ phụ và bi mẫu còn, là phước đức rất lớn của con cái. 

Cúng dường phụng dưỡng mẹ cha, phước ngang bằng với việc cúng dường đức Phật. Cho nên, những ai đối với cha mẹ hiếu nghĩa vuông tròn, sẽ luôn được giàu sang phú quí, phúc lộc vun đầy. Chưa giàu sang phú quí, chẳng qua vì còn bị những nghiệp quả trong quá khứ chi phối. Nghiệp quả đó trả xong, nhất định sẽ giàu sang phú quí.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10618)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 11100)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 9589)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 10485)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 12085)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9746)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10252)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10270)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19227)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 14663)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 24379)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15436)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10394)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 21521)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19339)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 11399)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 18768)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 9302)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 15953)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25723)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37927)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19658)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18760)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14341)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20172)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9553)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14416)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35656)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10707)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19778)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13411)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 20302)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10660)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9663)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 9242)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8529)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9790)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11244)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8344)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 14153)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9954)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15272)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12635)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 11382)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12127)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11090)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36476)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9000)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 17334)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10513)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12238)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13700)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 9198)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24923)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11692)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10365)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 14585)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13057)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant