Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Truyền thừa

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10247)
12. Truyền thừa

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

TRUYỀN THỪA 

Phật dạy 4 ân và cách báo 4 ân. Cách báo ân toàn triệt nhất trong các cách là làm sao tu cho được CHÂN THẬT BA-LA MẬT. Tu Chân thật ba-la-mật hay Quán tâm địa là một cách nói khác chỉ cho việc sống trở lại với tâm chân thật của mình, kinh Niết Bàn gọi tâm đó là PHẬT TÁNH, luận Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là CHÂN NHƯ, kinh Pháp Hoa gọi nó là TRI KIẾN PHẬT. Tất cả mọi pháp môn từ niệm Phật, trì chú, tham công án … mà chư Phật Tổ đã dạy, đều cốt cho người tu nhận lại tâm này. Chỉ do căn khí của người cạn hay sâu mà chư vị phương tiện chỉ thẳng hay gián tiếp.

Sống trở lại với tâm đó, cũng là sống lại được với TRÍ TUỆTÂM TỪ của chính mình. TRÍ TUỆ nói đây là trí tuệ thấy các pháp đúng như chính nó, nhận ra được qui luật đang chi phối thế giới này. Người xưa nói “Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống”. Biết, là biết được qui luật đang chi phối thế gian, theo đó mà sống, thì mọi thứ hài hòa yên ổn

Như chết, là lẽ tất nhiên mà ai cũng phải qua, chỉ là sớm hay muộn. Song nếu mình chấp nhận nó như một việc hiển nhiên, thì cái chết không làm mình khổ. Nhưng nếu mình không chấp nhận, cứ chạy vạy níu kéo, níu kéo một thứ không thể níu kéo, thì khổ vô vàn. Một chuyện hiển nhiên trước mắt còn khiến mình khổ như vậy, huống là những chuyện mình chưa thấu được. Vì thế, nắm được qui luật sống ở đời, là cửa giúp mình và người hết khổ.

Thấy người đói, cho ăn. Thấy người thiếu, giúp đỡ v.v.. những việc làm đó rất tốt, nhưng giúp ngặt chứ không ai giúp nghèo. Không thể cho họ suốt đời. Vì không khéo việc này sẽ sinh tiêu cực mà cũng không thể kéo lâu dài hay rộng rãi. Vì thế, cho tiền của, không bằng giúp cho họ có một công việc để tự lo sống. Tương tự, một khi mình hiểu được lý thật của cuộc đời, đủ năng lực để tự đi và chỉ cho người khỏi sụp hầm sụp hố thì việc đó phải lợi ích hơn là chỉ biết làm phước trao tặng. Mình trao tặng cho người mà người không đủ phước để hưởng thì có khi tai họa cũng liền kề. Nói vậy không phải là xúi mình đừng trao tặng. Nó là phương tiện cần thiết cho việc tặng pháp về sau. Nhưng thực tình, nếu phước không đủ, mình có cho cũng không tới tay, có tới tay cũng bệnh hoạn nạn tai cho tiêu sạch. Thành khi mang tiền giúp đỡ, một số vị hay khuyên người khác niệm Phật, hoặc khuyên người trích tiền mình đã cho ra cúng dường hay bố thí lại ít nhiều, hoặc khuyên người sống thiện, để giữ cái phước về sau. Đó là chỉ cho người con đường để người tự đi. Họ có phước rồi, không có mình họ cũng gặp được người giúp đỡ hay tự làm ăn phát đạt. 

Ngoài ra, trí tuệ Phật có hiển phát thì tình thương rộng lớn mới hiển bày. Phải có tình thương đối với muôn người, mới khiến mình không bo bo cái gì cũng chỉ hạn cuộc trong mình và gia đình mình. Tình thương này sẽ giúp mình tránh được những cái nhỏ nhặt không đáng trong cuộc sống. Cũng là thứ khiến mình mở lòng rộng rãi với mọi người, dù đó là người mình không ưa. Nó là cái nhân để mình có an vui trong hiện đời và mai sau. Chính vì thế, Phật nói tu Chân thật ba-la-mật mới trả hết các ân mình đã mang trong đời

Đó là nói trên mặt hiện tại, nói về lâu dài, hiện nay mình còn có kinh, luật, luận, ngữ lục của các Tổ để đọc, học … là nhờ sự nối tiếp truyền thừa của các bậc đi trước. Đây là phần rất quan trọng đối với người tu. Vì thế, với người TU PHƯỚC cầu quả báo Nhân Thiên, bố thí phápcông đức nhiều hơn bố thí phẩm vật là vậy. Với người TU PHẬT, đang thực hành hạnh nguyện Bồ tát, việc truyền bá lưu thông càng quan trọng. Thành cuối kinh, khi nào Phật cũng căn dặn đệ tử phải lưu thông truyền bá các kinh, như kinh đây nói “Khiến kinh này được lưu truyền rộng rãi …”. Lưu truyền, là truyền tay nhau kinh này không phải trong hiện đời mà cả về sau. Đó là việc lưu truyền dễ làm và đơn giản nhất. 

Để việc truyền thừa được rộng rãi hơn nữa, cần có vốn ngôn ngữ tối thiểu để dịch thuật kinh - luật - luận của Phật Tổ. Như kinh này vốn bằng tiếng Phạn, ngài Bát Nhã đời Đường dịch ra Hán văn, giờ mới có bản chữ Hán để mình dịch ra tiếng Việt mà cùng nhau chia xẻ cái hay của nó. Với loại kinh Nhân quả, tức những kinh không đòi hỏi phần tâm chứng, thì chỉ cần vốn ngôn ngữ là đủ, nhưng với những bộ kinh như Lăng Nghiêm, Lăng Già, luận Trung quán v.v… chỉ có vốn ngôn ngữ không thì chưa đủ. Thành học rồi còn phải tu. Tu rồi còn phải chứng nhập tự tâm. Tâm có được thanh lọc thì trí tuệ mới phát, mới khế hợp được những điều kinh nói, mới biết dụng pháp đúng duyên. Cần giảng pháp thì giảng pháp, cần xây chùa thì xây chùa, cần chú thuật thì dùng chú thuật v.v… Tùy duyên dụng pháp mà không mất mình, không khiến người và mình bị đọa lạc trong mê tín hay hình tướng. Đó là góp phần khiến ngọn đèn của Phật Tổ được sáng mãi. Không thì có khi phát tâm rất mạnh, nhưng việc làm của mình trở thành nửa mùa ...

Luận Đại Thừa Khởi Tín, được Tổ Hoa Nghiêm là ngài Hiền Thủ luận giải rất kỹ. Đại sư Hám Sơn thì nói “Yếu chỉ nhập pháp giới của tông Hoa Nghiêm lấy luận này làm cửa nhập pháp giới”. Nó là bộ luận rất quan trọng đối với người tu Đại thừa. Nó giúp người tu phát khởi niềm tin đối với Đại thừa, mở ra con đường Bồ tát, giúp người tu trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình. Nhưng có người lại cho nó là tà ma ngoại đạo. Không phải vì họ rắp tâm muốn phá hoại Phật pháp, mà vì việc tu hành chưa đạt được chỗ cần đạt, chưa thực chứng được cảnh giới mà luận nói, nên không nhận được phần lý lẽ thâm sâu BẤT BIẾNTÙY DUYÊN luận đã nêu. Chẳng qua vì lực dụng chưa đủ, nên thay vì hộ pháp, lại trở thành kẻ phá pháp

Cho nên, với người tu, CÔNG PHU TU HÀNH là quan trọng. Nó là thứ khiến mình phát trí tuệ, giúp mình nhận định được cái gì đúng, cái gì sai, cái gì tà, cái gì chánh để mà truyền thừa. Không có trí tuệ, Thầy Tổ nói một đường, mình diễn lại một nẻo. Thứ kẻ gian truyền thừa, mình cũng cho là Thầy Tổ mình nói. Cái đúng của người đi trước mình vô không được. Cái sai của người đi trước mình cứ đó mà theo. Thiếu trí tuệ nên mình không đủ năng lực nhận định vấn đề cho rõ ràng ... khiến nhiều việc đáng tiếc xảy ra. 

Bộ kinh này Phật giảng cho chư vị trưởng giả. Nhưng thật là cho tất cả mọi người. “Giàu sang mà chịu học đạo là khó” nhưng Phật vẫn giảng giáo Nhất thừa cho chư vị nghe, thì biết căn lành của chư vị rất lớn. Có điều vì hiện đời quá sung túc thành chư vị quên mất nguồn căn của mình. Không phải lúc Phật còn tại thế mới có những vị trưởng giả như vậy. Hiện đời đây cũng vẫn có. Không phải chỉ hiếu hạnh hết mực, cúng dường Tam bảo rất nhiều, cứu giúp người nghèo vô số mà chư vị còn nghiên cứu kinh sách, nghiên cứu không phải cho riêng mình mà còn giúp người khác nghiên cứu, rồi tự tâm dừng đi tham sân si của chính mình. Có người còn bỏ tất cả để tu hành. Chư vị không những chỉ đến chùa học đạo mà còn biết sống đạo, là cái nhân để Phật pháp được truyền thừa rộng rãi và dài lâu. Thành đừng nghĩ phải đứng ở cương vị giảng sư mình mới là kẻ nối tiếp truyền thừa của Phật Tổ. Đừng nghĩ phải 5 năm 10 năm nữa, mình mới thành kẻ truyền thừa. Cũng đừng nghĩ kẻ truyền thừa chỉ nằm trong một vài vị có chức sắc. Tất cả Phật tử, dù tại gia hay xuất gia, đều là kẻ truyền thừa của Phật Tổ, nếu hiện tại mình sống tỉnh giác, không để tham sân si làm chủ, luôn vì lợi ích của muôn người. Cứ một NIỆM được như thế là một niệm mình đang truyền thừa ngọn đèn của Thầy Tổ. NIỆM NIỆM như thế là niệm niệm đang truyền thừa. Không có sự truyền thừa nào hơn sự truyền thừa đó. Thực hiện như vậy là mình đang tu pháp CHÂN THẬT BA-LA-MẬT mà Phật nói đây. Đó là cách báo ân cha mẹ và Thầy Tổ cũng như tất cả mọi người được trọn vẹn nhất, cũng là góp tay khiến Phật pháp được lưu truyền rộng rãi và dài lâu.

Tp. HCM ngày 31.3.2007 
Chân Hiền Tâm
 

01 Với loại BẤT ÐỊNH NGHIỆP thì vẫn thay đổi được bằng duyên phúc đứcviệc thiện của chính mình.
02 Những câu trong ngoặc kép đều là phần trích dịch.
03 Dịch từ phẩm Báo Ân, kinh Ðại Thừa Bản Sanh Tâm Ðịa Quán. Ðại Chánh Tạng tập 3.
04 Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương 12. 
05 Chỉ thời gian và pháp tu của hàng Thanh văn. Thời gian thì có giới hạn, nhanh nhất là ba đời, chậm nhất là trăm kiếp. Pháp tu thì chỉ có thiền quán, không phải dâng hiến thứ gì cho ai. 
06 Tu di là vua của các ngọn núi, lớn nhất và toàn bằng châu báu.
07 Căn : Mắt, tai, thân v.v… 
08 Căng-già là sông Hằng, một trong ba con sông lớn ở Ấn độ.
09 5 cõi : Trời, người, súc sanh (thú vật), ngạ quỉ, địa ngục
10 Trong Thám Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký, Tổ Hiền Thủ nói “Theo luận Ðại Trí Ðộ, Nhị thiền gọi chung là Quang Âm”. 
11 Trích Ðất Việt.
12 Phần tiếp nói về cảnh giới tu hành của hàng Bồ tát Thập địa, và cảnh giới Tứ trí : Ðại viên cảnh trí v.v… Ðây không trích ra.
13 Cây bồ-đề được nói trong kinh Hoa Nghiêm
14 Mỗi loại ba-la-mật đều có 10 loại. Ðây lược bớt để dễ nhận ý chính.
15 Ðây là nói đến thân dư báo của Phật, là thị hiện của Phật pháp thân, như Phật bị quả báo mã mạch v.v…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18418)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19895)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19583)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33475)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34596)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54589)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37805)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21194)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63753)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16419)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14516)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22528)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57076)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29056)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38435)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31283)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13943)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14656)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14320)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12676)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14862)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19233)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12703)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30450)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11870)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30742)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29442)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30660)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31273)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37154)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32311)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23732)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12251)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14244)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14116)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34018)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27772)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28690)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29416)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12456)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29283)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26084)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22315)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39631)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22490)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34525)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27392)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28433)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant