Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phẩm Quyết Nghi (Nghi Vấn)

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13108)
3. Phẩm Quyết Nghi (Nghi Vấn)

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

3. Phẩm Quyết Nghi (Nghi Vấn

Một ngày kia, Vi Thứ Sữ có thiết một tiệc chay lớn mà đãi Đại Sư. Khi mãn tiệc, Thứ Sữ thỉnh Sư lên tòa giảng, rồi cùng các viên quan, chức săc, học trò, và dân chúng đồng trang nghiêm đến làm lễ Đại Sư một lần nữa mà hỏi rằng: “Đệ tử nghe Hòa Thượng nói pháp (lý nghĩa thâm diệu), thiệt không thể nghĩ suy và bàn nghị được. Nay có một chút nghi, xin Đại Từ Biđệ tử mà giải rõ.” 

Sư nói: “Có điều nào nghi thì hỏi, ta giải cho.” 

Vi Thứ Sử bạch: “Đệ tử có nghe Đức Đạt Ma lúc ban sơ hóa độ Lương Võ Đế, vua hỏi rằng: “Trẫm trọn đời cất chùa, độ tăng, đãi chay làm phước, có công đức gì ?” Đức Đạt Ma nói: “Thiệt không có công đức.” Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy, xin Hòa Thượng giải cho. 

Sư nói: “Thiệt không có công đức. Chớ nghi lời của Thánh nhơn đời trước. Võ Đế lòng tà, không biết chánh pháp. Cất chùa độ tăng, đãi chay làm phước, ấy gọi là cầu phước, không thể lấy phước mà kể là công đức được. Công Đức ở trong Pháp Thân, chớ chẳng phải ở chỗ tu phước

Sư lại nói: “Thấy tánh là công, giữ lòng bình đẳng là đức. Niệm niệm tâm không ngưng trệ, thường thấy Bổn Tánh, động tịnh tự nhiên, diệu dụng chơn thật. Ấy gọi là công đức. Bên trong, giữ lòng khiêm hạ là công, bên ngoài hành động theo lễ là đức. Tánh mình lập ra muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tánh mình là công, ứng dụng không nhiễm trần là đức. Muốn tìm cái công đức Pháp Thân, thì phải y theo đây mà tu hành. Thế mới là thiệt có công đức. Người tu công đức, thì lòng chẳng nên khinh dễ người, mà phải thường cung kỉnh khắp cả nhơn vật. Nếu lòng thường khinh dễ người, thì bổn ngã của ta chẳng dứt, tức là mình không có công. Tánh mình giả dối, không chơn thật, tức là mình không có đức. Bởi bổn ngã của ta tự đại, nên thường khinh dễ cả thảy nhơn vật. 

Chư Thiện tri thức, niệm niệm thấy tánh không rời là công, lòng giữ công bình chánh trực là đức. Tự giồi tánh mình là công, tự trau thân mình là đức. 

Chư Thiện tri thức, công đức phải thấy trong tánh mình, chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dườngbố thí (làm phước). Bởi vậy, phước đức với công đức là khác nhau. Vua Võ Đế không biết Chơn Lý, chớ chẳng phải tại Tổ Sư ta lầm. 

Thứ Sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy các thầy tăng và người tục niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về Tây Phương, xin Hòa thượng giải rõ cho biết các người ấy được vãng sanh về Tây Phương chăng? Xin Ngài phá chỗ nghi này.” 

Sư nói: “Sữ quân, hãy nghe cho kỹ, Huệ Năng nầy giải cho. Đức Thế Tôn lúc ở thành Xá Vệ, nói kinh về chỗ tiếp dẫn hóa độ vào cõi Tây Phương, rõ ràng cõi ấy cách đây chẳng xa. Nếu luận về hình tướng và số dặm thì có mười muôn tám ngàn, tức chỉ mười điều ác (1. Giết hại sanh mạng, 2- Trộm cắp, 3- Tà dâm, 4-Nói dối, 5- Nói xúi dục hai đàng, 6-Nói hung ác, 7-Nói thêu dệt, tục tỉu, 8- Tham lam, 9-Giận hờn, 10-Si mê), và tám điều tà trong thân (1-Tà kiến: Thấy hiểu tà vạy, 2-Tà tư duy: Nghĩ ngợi điều tà vạy, 3-Tà ngữ: Nói tà vạy, 4-Tà nghiệp: Tạo nghiệp tà vạy, 5-Tà mạng: nuôi dưỡng mạng sống của mình bằng các nghề tà vạy như làm thuốc độc, đánh mướn, làm võ khí, v.v, 6-Tà phương tiện: Làm phương tiện tà vạy, 7-Tà niệm: Suy gẫm tà vạy, 8-Tà Định:Thiền định tà vạy, không trúng chánh pháp). Thế mới là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì người thượng trí. Người có hai hạng, pháp không có hai thứ. Tánh mê ngộ khác nhau, chỗ kiến giải có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói: Tâm mình tịnh, tức là cõi Phật tịnh. 

Sử quân, người Đông phương mà tâm tịnh, thì không có tội. Còn tuy là người Tây Phươngtâm không tịnh thì cũng có tội. Người Đông phương tạo tội cầu vãng sanh về cõi Tây Phương, còn người Tây Phương tạo tội cầu vãng sanh về xứ nào? Người phàm mê muội chẳng tỏ tánh mình, không biết cõi Tịnh Độ trong thân, nên mới nguyện Đông nguyện Tây. Còn người giác ngộ dầu ở chỗ nào, tâm địa cũng một mực thanh tịnh tự nhiên. Sở dĩ Phật nói: Tùy cái chỗ trụ mà tâm thường được an lạc

Sử quân, nếu tâm địa của mình trọn lành, thì cõi Tây Phương cách đây chẳng xa. Bằng mình cưu mang cái tâm chẳng lành mà niệm Phật cầu vãng sanh, thì ắt khó đến cõi ấy. 

Nay khuyên các Thiện tri thức, trước trừ mười điều ác, tức là đi tới mười muôn, sau dứt tám điều tà, ấy là qua khỏi tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường làm việc công bình chánh trực, thì đến cõi ấy mau như khẩy móng tay, liền thấy Phật Di Đà

Sử quân, làm mười điều thiện, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Còn nếu chẳng dứt lòng cưu mang mười điều ác, thì Phật nào tới rước mình! Nếu hiểu rõ pháp Vô Sanh Đốn Pháp, thì trong một sát na ắt thấy cõi Tây Phương. Bằng chẳng hiểu rõ pháp ấy, mà cứ niệm Phật cầu vãng sanh thì đường xa vòi vọi, thế nào đặng đi tới cõi ấy. Để Huệ Năng nầy dời cõi Tây Phương trong một sát na cho các vị thấy liền trước mắt, các vị muốn thấy chăng?” 

Chúng nhơn đều đảnh lễ đáp rằng: “Nếu thấy cõi ấy, thì cần gì phải nguyện vãng sanh! Xin Hòa Thượng từ bi hiện cõi Tây Phương cho mọi người đặng thấy.” 

Sư nói: “Đại chúng, người ở thế gian, sắc thân của mình là cái thành, con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, cái lưỡi là các cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi, tánh là vua. Vua ở tại cõi tâm. Tánh ở thì vua ở, tánh đi thì vua mất. Tánh ở thì thân tâm tồn tại, tánh đi thì thân tâm hoại hư. Muốn thấy Phật, phải ngó vào trong tánh mình mà tìm, đừng ngó ra ngoài thân mà kiếm. Tánh mình mê tức là chúng sanh, tánh mình giác tức là Phật. 

Lòng từ bi tức là Quán Âm, lòng hỉ xả tức là Thế Chí, lòng năng tịnh tức là Thích Ca, lòng bình trực tức là Di Đà

Lòng nhơn ngã là núi Tu Di, lòng tà vạy (tham dục) là nước bển, lòng phiền não là sóng trào, lòng độc hại là rồng dữ, lòng dối giả là quỷ thần, lòng trần lao là cá trạnh, lòng tham sân là địa ngục, lòng ngu sisúc sanh

Chư Thiện tri thức, thường làm mười điều thiện, thì Thiên Đường liền đến. Dứt lòng nhơn ngã, thì núi Tu Di xập ngay, bỏ lòng tà vạy thì nước biển khô cạn, trừ lòng phiền não thì sóng lặng êm, quên lòng độc hại thì rồng dữ ắt tuyệt... Tu được như thế, thì các Giác Tánh Như Lai ở trong tâm địa mình phóng đại quang minh, soi sáu cửa ngoài trong sạch, có thể phá được các cõi trời Lục Dục (Lục Dục Thiên là: Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Da Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Lạc Biến Hóa Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên), lại trong soi tánh mình, làm cho ba độc (tham, sân, si) liền dứt, cả thảy các tội địa ngục đồng tiêu diệt một lần, trong ngoài sáng thấu, chẳng khác gì cõi Tây Phương. Nếu chẳng tu các hạnh ấy, thì thế nào đến cõi Tây Phương được.” 

Đại chúng nghe nói, thấy tánh rõ ràng. Tất cả đều làm lễ, khen thiệt hay, và xướng lên rằng: “Nguyện khắp chúng sanh trong Pháp giới nghe rồi, liền được tỏ hiểu.” 

Sư nói: “Thiện tri thức, muốn tu hành thì ở nhà tu cũng đặng, chẳng cần ở chùa. Ở nhà mà thường tu hành, thì cũng như người Đông phương có lòng lành. Ở chùa mà chẳng tu, thì cũng như người Tây Phương có lòng dữ. Nếu lòng trong sạch, thì tánh mình tức là Tây Phương vậy.” 

Vi Thứ Sử lại hỏi: “Ở nhà tu hành như thế nào, xin Đại Sư chỉ dạy.” 

Sư nói: “Ta nói cho đại chúng một bài kệ “Không tướng” (vô tướng). Nếu y theo đó mà tu, thì cũng như thường ở cùng ta một chỗ không khác. Bằng chẳng tu theo đó mà thế phát xuất gia, thì đối với Đạo nào có ích gì !” 

Tụng rằng: 

Lòng bình đẳng, chẳng đợi giữ giới 

Làm việc ngay, chẳng đợi tu thiền 

Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên 

Nghĩa huynh đệ, dưới trên tương ái 

Nhượng hòa mục, tôn ti đối đãi 

Nhẫn muôn điều, ác nghiệp tất tan 

Nếu bền tu, như cựa gỗ, lửa lên 

Nơi bùn lấm, nở đầy sen đỏ 

Đắng miệng đó thuốc trừ bệnh khổ 

Nghịch tai là lời thật, chánh trung 

Sửa lỗi lầm, trí huệ phát sung 

Bưng dấu lỗi, ấy lòng bất thiện 

Phải hàng ngày, chuyên làm việc thiện 

Phật Đạo nào bạc thí đặng nên? 

Tâm Bồ Đề, trong kiếm mới nên 

Ngoài cầu kiếm, nhọc lao, sái Đạo 

Nghe chánh pháp, cứ theo tu tập 

Cảnh Tịnh liền ngay mắt thấy liền. 
 

Tổ lại nói: “Chư Thiện tri thức! Cả thảy phải y theo bài kệ này mà tu hành và tự thấy tánh mình, thì chắc thành Phật Đạo. Pháp chẳng đợi chờ, các người hãy giải tán, ta về Tào Khê. Nếu có điều chi nghi ngờ, thì hãy đến đó mà hỏi.” 

Bấy giờ, Vi Thứ Sử cùng các thiện nam tín nữ tại hội, tâm tánh đều đặng mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng cung kínhvâng theo lời dạy. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18398)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19873)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19577)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33467)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34559)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54572)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37776)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21176)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17919)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63733)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17431)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49718)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16891)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16404)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14509)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22504)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13883)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29048)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33358)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38426)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31267)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13938)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14644)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14317)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12660)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14846)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13845)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12694)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30434)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11854)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30707)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29427)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30636)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31252)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37146)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32287)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34004)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12467)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28677)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29399)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12430)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29251)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28057)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25710)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26069)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22294)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33172)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31836)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39616)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22476)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34509)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27377)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28424)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant