Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thư tịch tham khảo

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 17094)
Thư tịch tham khảo

THƯ TỊCH THAM KHẢO


TÀI LIỆU ĐẠI TẠNG KINH

 

Đại Tạng Kinh, ấn bản Taisho, Trung hoa Phật giáo Văn hóa quán ĐĐại Tạng Kinh Ủy viên hội ảnh ấn, 1957 (viết tắt: ĐTK).

Tục Tạng Kinh, ấn bản chữ Vạn, Trung quốc Phật giáo Hội ảnh ấn, 1967 (viết tắt: TTK).

Lục độ Tập Kinh. Khang Tăng Hội dịch, ĐTK. 152, tập 3, bổn duyên bộ thượng.

Cựu Tạp thí dụ kinh, Khang Tăng Hội dịch; ĐTK. 206, tập 4, bổn duyên bộ hạ.

Cao Tăng Truyện, Lương, Huệ Hạo; TK. 2058, tập 50, sử truyện bộ 2.

Xuất Tam tạng ký tập, Lương Tăng Hựu; TK. 2145, tập 55, mục lục bộ toàn.

Hoa nghiêm kinh truyện ký, ĐĐường, Pháp Tạng thuật; ĐTK, 2073, tập 51, sử truyện bộ 3.

Pháp hoa truyện ký, Đường, Tăng Tường; ĐTK, 2068, tập 51, sử truyện bộ 3.

Hoằng tán Pháp hoa, Đường, Huệ Tường; ĐTK. 2067, tập 51, sử truyện bộ 3.

Đại phương quảng Viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh sớ (viết tắt: Kinh Viên giác), ĐĐường, Tông Mật; ĐTK. 1795, tập 39, kinh sớ bộ 8.

Lô sơn, Tống, Trần Thuấn Du; ĐTK. 2093, tập 51, sử truyện bộ 3.

Ngủ đăng toàn thư, Thanh, Siêu Vĩnh biên tập; TTK. 2542 sử turyện bộ.

Đại Huệ Phổ Giác Thiền sư Ngữ Lục, Uẩn Văn biên; ĐTK. 1998, tập 47, chư tôn bộ 4.

Thần Tăng truyện, (khuyết danh); ĐTK. 2064, tập 50, sử truyện bộ 2.

Thanh Tự Thật tướng nghĩa Không Hải (Nhật Bổn); ĐTK. 2428, tập 87, Tục chư tôn bộ 8.

Tức thân thành Phật nghĩa, Không Hải (Nhật Bổn); ĐTK. 2428, tập 87, Tục chư tôn bộ 8.

Cảnh đức Truyền đăng lục, (gọi tắt: Truyền đăng lục); Tống, Đạo Nguyên; ĐTK. 2076, tập 51, sử truyện bộ 3.

 

II. TÀI LIỆU HÁN VIỆT LINH TINH:

 

Lục Tổ Pháp bảo đàn kinh, Linh Thao, bản dịch Văn khố Từ Bi âm; ấn quán Sen vàng, saigon, 1951.

Phật học nghiên cứu thập bát thiên, Lương Khải Siêu; Trung Hoa thư cục, Đài bắc, 1957.

Luận Đại trí độ, tập 1 và 2, Tuệ Sỹ dịch; Long mãnh tùng thư, Sàigon, 1971.

Hồ Thích văn tồn, Hồ Thích; Viễn đông thư cục, Đài Bắc 1954.

Hoàng cực kinh thế, Tổng, Thiệu Khang Tiết; ấn hành trong Tứ bộ Bị yếu, Trung hoa.

Hoa nghiêm kinh, Trí Tịnh dịch Việt; Thích Đăng Quang, chùa Hải tuệ, Sàigon, 1966.

Pháp hoa kinh, Trí Tịnh dịch Việt; Thích Đăng Quang, chùa Hải Tuệ, sàigon, 1967.

Kinh Lăng-gìa tâm ấn, Diệu Không dịch Việt; Diệu Không, sàigon, 1970.

Đại cương Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Thiện Hoa dịch; Hương Đạo, Sàigon, 1960.

Kinh Viên giác, Thiện Hoa dịch; Hương Đạo, Saigon, 1959.

Lương hoàng sám (bài tựa), Trí Quang dịch; Phật tử Huế ấn hành, 1969.

Kinh Duy-ma-cật, Huệ Hưng dịch; Phât học đường Giác nguyên, Saigon, 1952.

Kinh Chu Dịch bản nghĩa (kinh thượng và hạ), Nguyễn Duy Tinh dịch; bộ Văn hóaGiáo dục, saigon, 1968.

Nam hoa kinh I, II, III Trang Tử, Nguyễn Duy Cần dịch; Khai Trí, saigon, 1963.

Đạo đức kinh I, II, Lão Tử, Nguyễn Duy Cần dịch; Khai Trí, saigon, 1961.

Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục (cũng gọi: Thiền uyển tập anh hay Tập anh), bản Ronéo của Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon theo bản trùng khắc của Phúc Điền Hòa thượng.

Thiền uyển thống yếu kế đăng lục (gọi tắt: Kế đăng lục), Phúc Điền Hòa thượng soạn; năm thứ 12 Tự Đức, Hà Nội, 1943.

Thiền tông Bản hạnh. Bản trực bút đại dẫn của Thanh Hanh; chùa Vĩnh Nghiêm, Bảo ĐĐại năm thứ 7.

Cao vương Quan Thế Âm kinh chú giải: Nguyên bản tại Ngọc sơn tự Hà Nội, theo bản trùng san năm Mậu đần Bảo Đại.

Khóa hư lục, Thiều Chửu dịch Việt; Hưng Long, Saigon, 1961.

Thượng Sỹ Ngữ lục (viết tắt: Ngữ Lục), Trúc Thiên dịch Việt; Tu Thư đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1968.

Tam Tổ hành trạng, Trần Tuấn Khải dịch Việt; Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Saigon, 1971.

Hoàng Việt văn tuyển I, II, III, Bùi Huy Bích, Nguyễn Đình Diệm dịch Việt; Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Saigon 1972.

Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên, Lê Hữu Mục dịch; Khai Trí, Saigon, 1965.

Lĩnh nam trích quái, Trần Thế Pháp, Lê Hưũ Mục dịch; Saigon 1960.

Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Chú dịch; Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967.

Đại Nam Nhất thống chí, Đặng Chu Kình dịch; Nha Văn hóa và Tổng Vụ văn hóa giáo dục tái bản, Saigon, 1966.

An Nam chí lược, Lê Tắc, Viện đại học Huế; Huế, 1961.

Việt sử tiêu án, Ngô Sĩ Liên, Hội Việt Nam liên lạc Văn hóa Á châu dịch; Văn hóa Á châu, Saigon 1960.

Việt nam Phật giáo sử lược, Mật Thể; Minh đức tái bản, Saigon, 1967.

Sử liệu Việt nam, Huỳnh Khắc Dụng biên soạn; Nha Văn hóaBộ Giáo dục, Saigon, 1959.

Bibliographie Annamite, B. Gaspardone, bản chỉ ấn Đại học Huế.

Phật giáo Việt nam (Le Bouddhieme en Annam), Tuệ Sỹ dịch Việt; Ban Tu thư Viện Đđại học Vạn Hạnh, Saigon, 1968.

Thiền luận I, Suzuki, Trúc Thiên dịch Việt, An Tiêm, Saigon, 1970.

Thiền Luận II. Suzuki, Tuệ Sỹ dịch Việt; An Tiêm, Saigon, 1971.

Thiền đạo tu tập, Chang Chen Chi, Như Hạnh dịch; Kinh Thi, Saigon, 1972.

Chu Dịch, Phan Bội Châu, Khai Trí, Saigon, 1969.

Lịch sử tư tưởng Việt nam, tập I, Nguyễn Đăng Thục; Bộ Văn hóa, Saigon, 1967.

Thiền học Việt nam, Nguyễn Đăng Thục; Lá Bối, Saigon, 1966.

Thiền học Trần Thái Tông, Nguyễn Đăng Thục; Nha Tu thư và Sưu khảo Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1971.

Lý Thường Kiệt, Hoàng Xuân Hãn; Tu Thư Viện đại học Vạn Hạnh, Saigon, 1966.

Văn hóa đời Lý, Ngô Tất Tồ; Khai Trí, Saigon 1960.

Văn học đời Trần, Ngô Tất Tố; Khai Trí, Saigon, 1960.

Văn học đời Lý, Lê Văn Siêu; Hướng Dương, Saigon, 1957.

Lược truyện các tác giả Việt Nam, Hà Nội 1952.

Quan Âm Thị Kính, Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích; Tân Việt, Saigon, 1953.

Từ hải, Phần Chữ Cát, Tự điển.

Các số Tạp chí:

-Vạn Hạnh: 1966, 1967 Chủ trương Thích Đức Nhuận.

- Tư Tưởng: Viện đại học Vạn Hạnh Saigon xuất bản.

-Bát Nhã: 1973 Giám đốc Hòa thượng Thích Trí Thủ

Bị Chú:

Thư Tịch Tham khảo này chúng tôi không sắp theo thứ tự A, B……. mà chúng tôi chỉ chia làm hai phần:

-Phần thứ nhất dành cho tài liệu Đại Tạng Kinh.

-Phần thứ hai dành cho tài liệu Hán Việt và linh tinh.

Riêng phần Hán Việt, chúng tôi sắp trước hết là Hán của Trung Hoa, thứ đến là Hán do người Việt viết, thứ đến nữa là tài liệu sử, sách dịch, sách viết, Tự điển và sau cùng là các tạp chí.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18415)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19887)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19580)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33471)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34584)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54581)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37796)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21191)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17943)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63742)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17436)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49733)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16903)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16414)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22525)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57052)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13885)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29051)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33367)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38430)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31275)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13941)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14654)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12672)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13851)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12699)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30444)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11863)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30714)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29436)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30649)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31259)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37151)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23716)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12246)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14241)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27767)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12477)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28682)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12449)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29271)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25717)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26078)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22306)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33182)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22481)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27389)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28428)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant