Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngài Ajahn Pasanno: “Trở thành tu sĩ có một sức hút kỳ lạ đối với tôi”

17 Tháng Mười 201100:00(Xem: 14832)
Ngài Ajahn Pasanno: “Trở thành tu sĩ có một sức hút kỳ lạ đối với tôi”

Ngài Ajahn Pasanno:
“Trở thành tu sĩ có một sức hút kỳ lạ đối với tôi”

Thủy Ngọc lược dịch

blankNgài Ajahn Passano lớn lên ở miền bắc Manitoba, Canada, cách biên giới Hoa Kỳ khoảng 600 dặm về phía bắc. Tôn giáo lúc ban đầu của Ngài là Anh giáo. Sau đó Ngài trở thành một con chiên của Thiên Chúa giáo.

Ngài Ajahn Passano cho biết: "Gia đình tôi rất mộ đạo. Cha tôi lớn lên trong nhà thờ United Church, mỗi ngày chúng tôi cùng học giáo lý với nhau. Tuy nhiên, vào năm tôi 16 hay 17 tuổi, tôi không còn đức tin nữa. Tôi bắt đầu tìm hiểu một tôn giáo khác".Và dưới đây là cuộc trò chuyện của Ngài Ajahn Passano với tạp chí Fearless Mountain Magazine:

Ngài có bao giờ nghĩ rằng ngài sẽ trở thành tu sĩ không?

Không. Nhưng việc trở thành tu sĩ có một sức hút kỳ lạ đối với tôi.

Đối với tôi cuộc sống tu hành thật là huyền bí. Nhưng lúc ấy ở Manitoba không có một tu sĩ Phật giáo nào cả, thậm chí ở trường đại học của tôi ở Winnibeg cũng không. Tuy thế, tôi có dự một lớp Tôn giáo phương Đông, trong đó có cả Phật giáo, nên tôi tiếp tục nghiên cứu về đạo Phật.

Khi tôi học xong đại học, tôi vẫn mơ hồ không biết mình có nên nghiên cứu Phật giáo (PG) tiếp hay không. Tôi tìm cách học Thiền định, vì tôi biết rằng cần phải học thiền định nếu tôi muốn tiếp tục nghiên cứu.

Tôi đọc hầu như tất cả những sách nói về Thiền định vì ở Canada lúc bấy giờ đó là phương tiện duy nhất để tìm hiểu về thiền. Một năm sau tôi đến Thái Lan, cảm thấy rất dễ chịu nên tôi muốn ở lại đó một năm. Tôi muốn tìm nơi để thực hành thiền định.

Tôi đi đến Chiang Mai và tình cờ trông thấy một tu viện, nơi đây lại có bộ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Anh. Thế là tôi ở lại một khách sạn gần đó, và mỗi ngày tôi đến tu viện để đọc bộ sách ấy. Lại một tình cờ nữa: Tu viện ấy là Thiền viện. Một chú Sa-di người Đức ở đó đã sắp xếp cho tôi tham dự một khóa tu thiền. Đó là khóa tu thiền đầu tiên của tôi, kéo dài một tháng trong im lặng.

Ngài đã thực sự tiến vào con đường thiền định?

Vâng, con đường đó đang mở ra trước mắt tôi. Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia. Tôi từ chối và nói rằng tôi đang trên đường học hỏi, tôi chưa sẵn sàng. Họ bèn giải thích rằng xuất gia trong ba tháng ở Thái Lan là một việc rất bình thường. Tôi nghĩ tôi có thể thử trong vài ba tháng, nên tôi đồng ý.

Cùng lúc đó tôi nghe nói về Thiền sư Ajahn Chah. Một vị Tăng khuyên tôi nên đến diện kiến ngài. Tôi đã xuất gia được một hai tháng rồi, nên tôi có thể đi đến Wat Pah Pong để gặp ngài. Quả là một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Điều đầu tiên ngài nói là nếu tôi muốn học thiền định với ngài, tôi phải ở lại đó năm năm. Điều đó quá khó đối với tôi vì tôi chưa sẵn sàng xuất gia chính thức.

Tôi đã ở lại đó chỉ một tháng, sau đó đi đến một tu viện khác, tu viện Wat Sai Ngam. Nơi đây tôi đã có cơ hội thực hành một số nghi lễ thiền định trang trọng. Tôi tiếp tục gặt được nhiều kinh nghiệm trong thiền định. Rồi một ý tưởng chợt hiện lên trong tôi: Nếu tôi thực sự muốn tu thiền, tôi sẽ phải trở lại với Thiền sư Ajahn Chah. Năm năm là năm năm. Đừng suy nghĩ về nó nữa!

Sau mùa an cư kiết hạ, tôi định trở lại với Thiền sư Ajahn Chah. Nhưng lại có một trở ngại, nên tôi dùng thời gian ấy tranh thủ học một ít tiếng Thái và thổ ngữ Lào.

Thưa ngài, chuyện gì đã xảy ra?

Nếu bạn xuất gia ở một nơi khác, thì bạn chỉ là khách khi đến một tu viện nào đó. Bạn phải xem xét kỹ những thông lệtu viện mới rồi mới quyết định có nên ở lại đó không. Những vị tu sĩ lớn tuổi cũng dò xét bạn. Sau hai ba tháng chờ đợi, cuối cùng tôi đã được chấp nhận. Nếu bạn không tuân theo quy địnhtu viện đó - chẳng hạn bạn thường sử dụng tiền để mua sắm - thì việc đó phải được chấm dứt ngay.

Chuyện này đã xảy ra vì đa số Tăng sĩ đều sử dụng tiền. Thậm chí nếu Phật tử cúng dường y cho bạn, và bạn đem nhuộm nó theo ý bạn, sư Ajahn Chah sẽ yêu cầu bạn thay y khác. Y phải do chính tu viện may. Chất nhuộm cũng là chất nhuộm của tu viện. Y của tu sĩ phải là loại y mặc ở rừng. Bát cũng rất to, vì ở rừng bạn có thể dùng nó để đựng đồ dùng cần thiết khi di chuyển. Những bát này rất đặc biệt, ai cũng mong nhận được chúng.

Nghe như rất cổ truyền phải không thưa ngài?

Đúng vậy. Đó chính là cái cảm giác khi ở Wat Pah Pong: dường như các truyền thống thời Đức Phật vẫn đang tiếp tục truyền đến tận đây. Phong tục cổ xưa, tình trạng nguyên vẹn, và tính giản đơn mộc mạc! Nhưng điều gây ấn tượng nhất cho tôi là sự tĩnh lặng nơi đây. Mọi thứ đều được trông chừng hết sức cẩn thận.

Nổi bật hơn cả là sự tinh tấn của các Tăng và sa-di, và sự thuần thành của Phật tử. Trong vùng đất nghèo khó như ở Đông Bắc Thái Lan, nhưng người Phật tử luôn cúng dường chư tăng mỗi buổi sáng. Trong những ngày lễ, họ đi nghe pháp rất đông, ngồi thiềnđọc kinh. Bạn có thể cảm thấy truyền thống PG cổ xưa vẫn còn đọng lại nơi đây.

Tôi nghe nói Phật tử ở đây thức suốt đêm để thiền định?

Đúng. Họ thức suốt đêm để ngồi thiền, một tuần một lần vào những đêm có lễ. Đối với tôi là người mới đến, thật khó khăn khi phải ngồi yên dù chỉ một giờ. Mà bạn không được ngồi trên bồ đoàn có nệm mousse. Bạn phải ngồi trên một lớp vải, trên sàn cứng. Một số người chỉ có thể tọa thiền như thế trong hai ba giờ, rồi họ phải đứng dậy đi thiền hành, rồi lại ngồi tọa thiền tiếp…cứ như thế cho đến hừng đông. Và bạn phải tụng kinh. Việc này gây cảm hứng nơi tôi. Có một ảnh hưởng tương tác rất lành mạnh giữa Tăng đoànPhật tử ở đây. Luôn có Phật tử đến cúng dường, hỏi han, và tỏ lòng tôn kính ngài Ajahn Chah. Họ cũng giúp đỡ trong mọi sinh hoạt của tu viện. Họ luôn ý thức rằng tu việntrung tâm của cộng đồng.

blank

Tu sĩ Nam Tông 

Khi nào ngài đã trở thành vị trụ trì Wat Pah Nanachat?

Vào năm thứ chín sau khi tôi xuất gia. Thật ra tôi không bao giờ có ý định như thế. Tôi đã từng ở một tu viện trực thuộc, diện tích chỉ khoảng 1.000 mẫu Anh. Nhưng tu viện đó nằm trong một cánh rừng đẹp, có một cái hồ vây quanh. Tôi đã hy vọng ở lại đó lâu hơn. Nhưng ngài Ajahn Chah gửi lời mời tôi trở lại Wah Pat Nanachat để chuẩn bị trở thành một trụ trì. Vì ngài yêu cầu, nên tôi đã thực hiện điều đó.

Thiền sư Ajahn Chah đã nhìn thấy một vài phẩm chất nơi ngài nhưng có lẽ ngài không biết?

Tôi nghĩ tôi phải cố gắng đáp lại những gì Thiền sư thấy nơi tôi hơn là tôi nhìn thấy nơi chính mình. Thật là khổ khi rơi vào hoàn cảnh đó. Là một người lãnh đạo và có nhiều trách nhiệm hơn, phần lớn là việc giải quyết những vấn đề của con người, nên việc này rất khó. Giữa muôn trùng đau khổ trong vũ trụ mênh mông này, thì việc đối phó với đau khổ của con người là điều quan trọng nhất. Tôi không thể nào lựa chọn! Tôi phải giúp đỡ mọi người. Tôi phải học dần từ việc đó.

Việc tu tập thiền định của ngài có thay đổi nhiều theo thời gian không?

Một điều mà tôi luôn thực hiện từ ngày đầu tiên đến bây giờ, là chánh niệm trong hơi thở. Tôi thử nghiệm rất nhiều phương pháp, nhưng chánh niệm trong hơi thở là điều căn bản quan trọng nhất. Tất nhiên, việc hành thiền này càng lúc càng được tinh luyện hơn để có hiểu quả nhất.

Lời dạy của Đức Phật dường như rất đơn giản, nhưng ý nghĩa uyên thâm sâu sắc của nó bây giờ mới dần tỏa sáng. Còn những thay đổi khác là mọi việc tôi làm bây giờ hình như trở nên dễ dàng hơn so với lúc ban đầu. Thoạt đầu tôi có rất nhiều kế hoạchcố gắng không ngừng. Bây giờ tôi yêu thích việc tu tập thiền định hơn lúc đầu, bởi vì giờ đây mọi thứ đều dường như rõ ràng hơn và tôi hài lòng hơn.

Ngài có thể nói gì về việc các ngài đồng trụ trì ở đây?

Chia sẻ tránh nhiệm và có luôn người hội ý thì rất tốt, rất hữu ích. Ngoài ra, không thể chỉ có một người duy nhất trong hàng lãnh đạo, với một khuôn mẫu duy nhất. Thầy Ajahn Chah và tôi có tính tình khác hẳn nhau và tạo ra hai mẫu người khác nhau nhưng cùng nhau tu tập. Điều đó rất tốt, chúng ta có nhiều cách khác nhau để đi đến đích. Nó giúp mọi người có cơ hội “dễ thở hơn”, và thấy được mình nên làm gì, thay vì chỉ ‘mô phỏng’ theo thầy Ajahn Chah.

Đào tạo tu sĩ ở Hoa Kỳ khác với ở Thái Lan như thế nào?

Ở Thái Lan đời sốngtính cách chuyên quyền, độc đoán. Còn ở Hoa Kỳ chúng tôi luôn mong muốn được tham khảo nhiều ý kiến hoặc được tư vấn trước khi đi đến bất cứ một quyết định nào. Ngoài ra, khuynh hướng của xã hội Mỹ là rất bận rộn. Chúng tôi phải luôn ý thức không để tu viện sa lầy bởi hình thức siêu tổ chức, nơi mà mọi việc đều phải làm theo giờ quy định và có rất ít thời gian rảnh rỗi. Thái độ sống đó rất dễ dàng thâm nhập vào tu viện của chúng ta.

Tôi nghe nói người châu Á thường tự hài lòng với chính mình và không tự ghét mình như người Mỹ?

Tôi không nghĩ như thế. Tôi chỉ nghĩ người châu Á không tự làm họ bối rối, họ luôn tự chấp nhận mình là như thế. Họ không phân tích rắc rối, và đánh giá điều này điều kia như đầu óc người phương Tây, đặc biệt là người Mỹ!

Sự tu tập khác nhau như thế nào ở phương Tây?

Tôi thiên về chỉ đạo mọi người tu tập theo hướng hòa hợp. Tôi yêu cầu họ phải hiểu rõ đức hạnh, giới luậtlòng vị tha của mình. Con người thường chỉ nghĩ đến bản thân mình, nên họ khó có được lòng vị thatừ bi. Lòng vị tha đại lượng, không phải chỉ về vật chất, nó còn nói về thời gian, sự phục vụ, và sự hy sinh.

Người ta nói: Nếu tôi hiểu được chính mình, thì tôi sẽ bình yên. Nhưng không có kết thúc cho việc tự hiểu mình. Con người xa lạ với chính mình quá. Chính vì thế tôi cũng nhấn mạnh sự chánh niệm về cơ thể. Nó giúp chúng ta vượt qua được sự ám ảnh về bản thân của mình, hay sự so sánhđánh giá bản thân. Cứ luôn hỏi ‘cái gì’ là điểm thuận lợi dành cho ta, và cứ thế mà xoay tròn, rồi lại hỏi trở lại…

Chú ý đến cơ thể mình là một phương thuốc giải độc. Ta có thể chú ý đến hơi thở hay cảm giác của cơ thể, hay là tư thế, dáng điệu. Nhưng điều quan trọng nhất là phải luôn hướng suy nghĩ vào cơ thể của mình.

Thủy Ngọc lược dịch (Theo urbandharma.org)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 92)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 338)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
(Xem: 548)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 720)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 726)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 761)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 885)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 858)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 977)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 776)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1103)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1314)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1052)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1333)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1192)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1142)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1361)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1651)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1456)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1568)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2458)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1991)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3090)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2277)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1787)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2648)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2235)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2602)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12308)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3008)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6741)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4349)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2615)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3275)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2584)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3107)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2900)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3567)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3763)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3237)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3074)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4349)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6058)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5390)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5626)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3161)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5263)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2354)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2338)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2654)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2479)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3352)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5074)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4891)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3986)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5000)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4744)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4538)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3935)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant