Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tương quan giữa Thiền và Tịnh

09 Tháng Tư 201400:00(Xem: 11391)
Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Tương quan giữa Thiền và Tịnh


Võ Thị Thanh Thảo

 

Hơn 2500 năm trước, một Vĩ nhân xuất hiện trên đời, trong bối cảnh Ấn Độ đang đắm chìm trong 62 học thuyết ngoại đạo chấp thủ ngã và ngã sở, bị vây bủa bởi chiều dày lịch sử phân chia giai cấp, nhân loại khổ đau, nhưng không tìm ra lối thoát. Sự xuất hiện của Ngài như vầng thái dương toả rạng, phá tan mọi tối tăm của màn vô minh trong đêm dài bất tận. Ngài đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại, giải phóng con người thoát khỏi khổ đau. Đó chính là đức giáo chủ Gotama. Ngài xuất hiện trên thế gian này vì lợi lạchạnh phúc của trời và người[1]. Ngài đã để lại một kho tàng giáo lý đồ sộ, là di sản bất sanh bất diệt.

 

TƯƠNG QUAN GIỮA THIỀN VÀ TỊNH 

 Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông. Mục đích tu hành duy nhất của 2 Tông phái này cũng không ngoài bổn nguyện giải thoát sanh tử, lìa khổ được vui.

 Nói về phương pháp để tu hành của Phật giáo thì rất nhiều bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Chúng ta có thể so sánh các pháp môn như các loài hoa quý, tuy nhiều mùi thơm, lắm sắc đẹp, mà không loài nào không nỡ trong vườn tịnh giới của Đức Phật. Cũng vậy, mặc dù vô lượng pháp môn tu như: Thiền, Mật, Hoa nghiêm, Tịnh Độ…đều thuộc về Đạo Phật. Giống như nước ở trăm sông, ngàn suối khi chảy về biển cả và hòa lẫn với nước biển đồng mang một mùi vị đó là vị mặn. Giáo pháp của Phật cũng thế, dù có vô vàn pháp môn tu nhưng đều đưa đến một mục đíchgiải thoát. Chúng sanh thì đa bệnh, Phật pháp lại đa phương. Vì lẽ đó người viết chọn đề tài: “Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh” để làm bài thu hoạch của mình. Tuy nhiên với đề tài này mang tính chất rộng lớn, bao quát nhiều lãnh vực khi nghiên cứu để trình bày được đầy đủ. Do vậy người viết không thể chuyển tải được hết mọi vấn đề, chỉ trình bày theo sự hiểu biết trong khả năng giới hạn của mình. Mong rằng một số kiến thức có được sẽ là thiết thực, hữu hiệu cho con người, góp phần xây dựng ngôi nhà đạo pháp tại thế gian.

 Với đề tài này người viết dựa vào bài giảng của giáo thọ sư kết hợp với những tài liệuliên quan đến đề tài để trình bày những nội dung sau:

  • Khái Quát Về Thiền và Tịnh
  • Sự Tương Quan Giữa Thiền và Tịnh
  • Nhận Định Chung

 Để hoàn thành, người viết dựa vào phương pháp phân tích, bình giảng để trình bày về nội dung. Đồng thời cũng nêu lên vài quan điểm tương đồng của hai pháp môn này để mọi hành giả cùng tham khảo.

 Khái Quát về Thiền và Tịnh

 Thiền là một trong những Nội dung tu tập cực kỳ quan trọng của Phật giáo. Có thể nói, nếu không thực hànhthành tựu thiền sẽ không chứng được tuệ giác, giải thoát

 Theo định nghĩa chung, Thiền: tiếng Phạn là Dhyàna (Pàli: Jhàna), phiên âm là Thiền na, dịch ý là tĩnh lự. Tĩnh là sự yên lặng; Lự là suy tư. Tĩnh lựđình chỉ mọi tư tưởng hay cột tâm ý chuyên chú vào một đối tượng duy nhất. Thiền còn gọi là “tư duy tu”, “khí ác”, tức xả ly tất cả các tâm niệm ác, ngũ triền cái (dục, sân, hôn trầm, trạo cử, nghi) [2].

Thiền định (Samadhi) là phương pháp gom tâm trụ nó vào một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng. Định của thiền địnhtâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất. Sự định tâm, chuyên chú này có tác dụng thiêu đốt các nghịch pháp phiền não (Tapo).

 Nội dung cơ bản của Thiền được cư sĩ Hồng Quang định nghĩa giản dị đễ hiểu: “Thiền là tập trung tâm vào một điểm mà không suy nghĩ và một vấn đề nào khác”.[3] Được phân làm 2 loại Thiền Giác Ngộ và Thiền Sức Khỏe.

Tịnh, theo định nghĩa của Tịnh Độ Tông: còn gọi là Liên tông, hoặc Niệm Phật Tông. Lấy ngài Phổ Hiền Bồ Tát làm Sơ Tổ, tông này chủ trương “Niệm Phật vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc”. Khi hành giả về cõi này thì không còn luân hồi nữa.[4]

Nay chúng ta muốn tìm hiểu pháp môn này thì phải biết rõ về hai chữ Tịnh Độ nghĩa là gì?

Tịnh: nói đủ là thanh tịnh, tức là không có nhiễm ô, dơ bẩn, đó là ý nghĩa tiêu cực. Về phương diện tích cực, không tạp nhiễm lỗi lầm phiền não, tức là thanh tịnh, đầy đủ công đức, trí huệ.

Độ: là cõi nước, thế giới hay nơi chốn nương tựa chung.

Vậy Tịnh độ là cõi nước thanh tịnh trang nghiêm nơi đó tâm địa chúng sanh không nhiễm ô, không phiền não, luôn an vui tu tập để tiến đến cứu cánh giải thoát viên mãn. Đây là thế giới trang nghiêm vi diệu

Tương Quan giữa Thiền và Tịnh

 Như chúng ta biết, con người ai ai cũng mong ước có một cuộc sống khỏe mạnh ít bệnh hoạn, nhưng không ai tránh khỏi hoạn hoại này. Để có được biện pháp thiết thực cần yếu cho con người đức Phật đã dạy chúng ta một loại linh dược, không tốn tiền mà vô cùng quý giá, đã hơn 2500 năm qua nhân loại chưa biết đến, hoặc đã biết nhưng không chứng minh được lợi ích của loại thuốc này, loại thần dược đó chính là “Thiền và Tịnh” là hai vị thuốc nếu khéo tác hợp nó sẽ cho ra kết quả vô cùng hữu hiệu.

 Nói đến tu Tịnh và tu Thiền, bề ngoài nghe dường như mâu thuẫn, song bên trong đã đồng nhất không sai biệt, để dung hoà hiện thực với siêu nhiên.

 Nếu Thiền định là lắng đọng tư duy, và tập trung tư tưởng, không để cho niệm lự dấy lên, và thắp sáng ngọn đèn chánh niệm, để duy trì thường trực tính năng biết nhiệm mầu hay tri kiến của mình, thì người tu Tịnh độ lúc nào cũng ở trong Thiền, vì hành giả luôn luôn ở trong tĩnh lặng của Thiền. Ý của hành giả không đuổi theo trần cảnh và tâm của người này nhiếp câu niệm Phật trong định thì chúng ta đã dung hòa giữa Thiền và Tịnh song tu thì càng hiệu nghiệm hơn.

 Trong xã hội hiện nay, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, đã mang thân người không ai tránh khỏi những căn bịnh hiểm nghèo khó vượt qua lưỡi búa của tử thần, khiến cho con người thường hay lo sợ, hải hùng hay thối mất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, con người phần nhiều mang nặng những căn nghiệp tham, sân, si từ vô thỉ kiếp, khi gặp những tình huống căng thẳng trong cuộc sống giao tiếp ngoài xã hội, thường mắc phải những cảnh trái ý nghịch lòng, liền sanh tâm sân hận, lo âu phiền muộn luôn mong cầu sự trợ lực của những bậc thần linh, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật cầu sự gia trì của chư Phật là phương pháp rất gần gủiphù hợp, làm cho con người có được niềm tin trong cuộc sống.

Mặt khác, qua sự nghiên cứu của các học giả cho thấy: con người khi tinh thần bị khủng hoảng hay giận hờn, cơ thể tiết ra những hóa chất và được dẫn vào đường máu để gia tăng sự đối kháng. Lúc đó người bị căng thẳng có các triệu chứng như: Thở mạnh, nhịp tim đập nhanh, nhức mỏi…Các phản ứng vật lý vừa kể nhằm đẩy mạnh khả năng của người lúc cơ thể bị đe dọa. Tuy nhiên, cơ thể con người thường không có lối thoát cho những năng lượng dư thừa. Vì thế, việc đầu tiên mà con người chống lại stress (căng thẳng) là, tạo điều kiện cho cơ thể thư giản trở lại bằng cách lắng đọng tâm tư, thở nhẹ nhàng, thiền giúp con người vượt qua sự căng thẳng của cơ thể sẽ được thư thái.[5] “Thiền còn giúp chúng ta chữa được bệnh, chống lão hóa, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, khỏe mạnh hơn, sống có hạnh phúc hơn..”.[6]

Thế nên, khi tìm hiểu kỷ chúng ta đã có một kết quả khả quang hơn là, giao điểm giữa Thiền và Tịnh có thể giúp cho hành giả càng vững vàng trên tiến trình thực tập ở chổ: Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện tức là cần có (định tâm), những tư tưởng loạn động không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hậnsi mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa (điều phục tâm), miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn. Mà lo âu phiền muộn chính là nguồn gốc phát sanh bệnh. Do đó, Thiền và Tịnh như các đạo tràng thường hành thì chỗ đồng hành gặp nhau không có ranh giới.

Đạo Phật có muôn ngàn pháp môn, tượng trưng có 2 pháp môn Thiền và Tịnh là phổ biến hơn cả. Các pháp môn Niệm Phật như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên, còn pháp môn ngồi thiền định tâm như con mọt đục ngay mình tre mà ra. Tuy hai phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương pháp Thiền kết quả mau chóng hơn các phương pháp khác.Chính vậy, Tịnh Độ tôngThiền tông hiện nay là hai Tông phái được phổ biến rộng rãi nhất và cũng được nhiều Tông phái khác phổ biếnhành trì.

- Tịnh độ thì chú trọng vào niềm Tin của cá nhân và sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Pháp tu chủ yếu là chú tâm chuyên nhứt vào niệm danh hiệu Phật A Di Đàquán tưởng đến thế giới Cực lạc. Cho nên nói Tu Tịnh độ (thuần tuý) là hướng về ngoại cảnh hay hành Pháp tướng, nương vào Tha lực bằng cách niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để trút bỏ phiền não, nhiễm ô, mong đạt tới sự an lạc ngay trong hiện tại thân được nhẹ nhàng khinh an sẽ giảm thiểu được các căn bịnh. Tâm không suy nghĩ sằng bậy thì tâm không bị nhiễm ô, hiện tại thân khỏe tâm an và tương lai chứng đắc Niết bàn Tịnh độ.

 - Thiền định cũng vậy, là một phương cách giúp tinh thần được thư dãn. Hai phương pháp luyện tập này có những điểm tương đồng với nhau, nhưng Thiền tập đi sâu vào trạng thái tâm linh, nội tại của con người hơn là những bài luyện tập về thể lực. Thiền định là hướng về nội tâm, hành Pháp tính, dựa vào Tự lực, quán sát tự tính để diệt trừ chúng sinh tính trong lòng mình, mong cho tâm tỏ ngộ.

Trong nhiều pháp môn tu có thể nói Thiền Tịnh Song Tu là một phương pháp kết hợp mật thiết dễ hành trì, và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết “Ư niệm Phật thì chánh thân đoan toạ, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã. Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến, bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp.” [7] (Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân, Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng (định thân). Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý (định tâm). Công năng niệm Phật là thế, nhưng phương thức hành trì của mỗi đối tượng dựa trên sự phân chia căn trí cao thấp.

Qua thực tế cho thấy, sự căng thẳng thiếu cân bằng của cơ thể và tâm hồnnguyên nhân chính tạo ra bệnh và lây lan những bệnh khác. Tâm có thể tạo ra bệnh thì tâm cũng có công năng chữa lành bệnh. Học cách hành thiền và niệm danh hiệu Phật có thể làm cho Thân tâm quân bình. Đồng thời, cải thiện được sức khỏetinh thần của con người được ngày một phấn chấn hơn.

Người con Phật chẳng những là người y pháp tu họccần phảitư tưởng trạch pháp, trong vô lượng pháp môn tu bao gồm 8 vạn 4 ngàn pháp môn, nhưng chúng ta có quyền dung hợp những phương pháp nào hợp với căn cơtrình độ của mình, mới có thể đưa đến hạnh phúc an lạc trong hiện tại thân khỏe tâm an và giải thoát trong tương lai, thì không thể không tham cứu kỷ càng về hai pháp môn Thiền và Tịnh. Vì đây là chiếc chìa khóa vạn năng giúp chúng ta thông suốt trong quá trình tu tập giải thoát.

Ngoài việc ngồi thiền và niệm danh hiệu Phật, chúng ta cần kết hợp phương pháp tập thể dục, chế độ ăn uống hợp lý.

 Thiền và thuốc song hành có lẽ là giải pháp tốt nhất. Ngoài những yếu tố vừa đưa ra, con người thường bệnh là vì có thêm sự rối rắm, bất ổn trong tâm của mình, do đó tập ngồi Thiền chuyên tâm vào câu niệm Phật là cách để giúp mình hồi phục lại được sự yên tỉnh, êm lắng và hài hoà trong tâm.

Thiền có thể giúp cho mình có sự sáng suốt, giúp giải toả những căng thẳng, lo lắng, bất an trong con người, giúp mình vượt qua những ám ảnh về tâm lý gây ra bởi những biến cố, những chấn thương mà mình đi qua trong quá khứ, hoặc có thể hoá giải những thói quen tiêu cực trong chính bản thân mình – những cách suy nghĩ, những cảm xúc tiêu cực, hoặc cách mình ứng xử với người khác.

Niệm danh hiệu Phật giúp chúng ta cột tâm vào một đối tượng chuyên chú nhứt tâm không dấy niệm bất cứ việc gì ngoài câu niệm Phật, tâm không khởi loạn tưởng chạy theo trần cảnh thì không có tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si thì còn gì hạnh phúc hơn.

Vậy muốn có một cuộc sống an lạc hạnh phúc chúng ta cần phối hợp giữa Thiền và Tịnh. Cổ nhân dạy:

 "Có Thiền không Tịnh độ, mười người chín chần chừ, ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”[8]:

“Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người tu, muôn người được vãng sanh (nếu nhất tâm).

“Có thiền có tịnh độ, khác nào cọp mọc sừng, hiện đời làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ"[9].

Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền, lại càng chắc chắn hơn nữa ( 2023).



[1] Thích Chơn Thiện, Tăng Già Thời Đức Phật, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2000, trang 45

[2] Ban Hoằng Pháp, Báo Giác Ngộ số 350. 12-10-2006. Thiền Chỉ & Thiền Quán. Tr 14.

[3] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, tr 5

[4] Trần Nghĩa Hiếu, Từ Vựng Phật Học, NXB: Phương Đông, Tr 875

 [5] Hồng Quang, Thiền Và Những Lợi Ích Thiết Thực, Xuân 2013, Tr 13

[6] Sdd, tr 41

[7] Viện Văn Học, Thơ Văn Lý Trần, tập 2, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr.84.

[8] Ấn Quang Đại Sư Gia Ngữ Lục, NXB Tổng hợp TPHCM, Năm 2006, Tr 318.

[9] Sđd, tr 316.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9612)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10176)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20512)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11708)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46802)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12145)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11841)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17924)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10203)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17880)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18258)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17093)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11531)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11694)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19869)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7227)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9258)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14942)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18716)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15332)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17377)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29856)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31641)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32906)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30899)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32680)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39433)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40539)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50240)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16139)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25535)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17862)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33407)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39708)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44094)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23150)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44160)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42963)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44490)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39285)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19309)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35730)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24275)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20451)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19072)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18986)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19374)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20380)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15620)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36385)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20360)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31602)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15983)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 35994)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34470)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19544)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18993)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22987)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20232)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18421)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant