Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Khổ Đau Và Con Đường Giác Ngộ Vượt Thoát Trong Thiền Tông

08 Tháng Hai 201507:50(Xem: 9620)
Ý Nghĩa Khổ Đau Và Con Đường Giác Ngộ Vượt Thoát Trong Thiền Tông
Ý NGHĨA KHỔ ĐAU
CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ VƯỢT THOÁT
TRONG THIỀN TÔNG

Như Hùng



Thien Tong" Làm thinh như Chánh Pháp
Nói năng như Chánh Pháp"

1, Từ hiện tượng nầy sanh hiện tượng khác

Những đau khổ nào mà con người còn diễn tả được, còn quan niệm, còn sờ mó được, thì cái đó chưa phải tột cùng của khổ đau. Cái khổ mà con người đang gánh chịu chỉ là kết quả tất nhiên của một động cơ, nó đẩy đưa con người từ hiện tượng nầy sang hiện tượng khác, chìm đắm trong đêm dài tăm tối, lặn hụp trong biển si mê không thể nào thoát ra được, cũng chỉ vì sự chi phối tác động và cai trị của một chủ tể đó là Vô Minh.

Vô minh là không sáng suốt, tăm tối, không nhận ra được chân lýkhổ não, nó không là gì cả, chỉ là bóng dáng của một giả thể, nhưng con người đã tổng hợp và cho đó như một thực thể, ôm ấp, gắn vào đó những nhãn hiệu, khuôn mẫu mà thực ra không phải là nó. Chưa một lần nào ta chịu nhìn ngắm khám phá ra nó và nếu có chăng đi nữa thì sự nhìn ngắm đó, cũng chỉ là nhìn ngắm để rồi ngắm nhìn, chứ chưa thật sự đặt vấn đề giải quyết và tìm phương vượt thoát khỏi nó.

Sự nhận thức của con người vốn đã bị bóp méokhông thật, khi nhìn ngắm và soi xét về một đối tượng, con người đã không nhìn bằng ánh mắt của như thật, của trí tuệ mà bằng sự chi phối, dẫn dắt, tác động của vô minh. Không một sự nhìn ngắm nào mà không khởi lên những phân biệt, chấp trước, nắm bắt, vì khi phân biệt phải có chủ thể khách thể, cái nhận thức và cái bị nhận thức, cái ta và cái của ta. Con người luôn nắm bắt thực tại và không sự nắm bắt nào mà không tạo nên khổ đau, rên rỉ, thất vọng. Bởi lẽ tất cả mọi sự vật đều biến hóa, ảo tưởng, không thật, thì sự nắm bắt ấy đồng nghĩa với sự biến dạng mất mát.

Khi ý thức nảy sinh sự ham muốn, thì động niệm theo đó phát sinh, khi động niệm sinh, tức khắc ý thức bị phân hai trở thành chủ và khách, như vậy sự xung đột chắc chắn xảy ra. Nếu sự phân hóa vừa xuất hiện, thay vì quán chiếu vào tận cùng tâm thức để phản tỉnh vượt thoát những kiến chấp nắm bắt, dùng trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi người để soi sang, thì chúng ta lại bám vào thế giới trần cảnh, những quan niệm cùng giáo điều cứng ngắt, những khuôn mẫu đúc sẵn, những trí thức lừa đảo. Khi nào tâm thức còn bị đánh lừa bởi những gì do chính nó tạo ra hoặc phản chiếu, thì vô minh vẫn còn ngự trị trong sâu thẳm. Chỉ khi nào lớp vỏ khô cứng đó bị đập vỡ tung, trí tuệ xuất hiện chiếu rọi trong tận cùng tâm thức, xé tan màn dày đặc của vô minh, thì lúc ấy nó mới không còn chổ để dung thân.

2, Ý thức thường trực về khổ đau.

Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là đối diện với nó, đương đầu và chấp nhận, sẵn sàng nở nụ cười hoan hỷ chấn động cả tâm thức, ôm ấp nó vào lòng như ôm một đứa con yêu quý. Không một sự thoát khổ nào bắt nguồn từ sự xa lánh trốn chạy, cái khổ càng được nung nấu, un đúc, trui rèn, mài dũa thì cái tâm lại càng tinh luyện, cứng rắn và vững chãi, thân thể càng bị đày đọa, tim rỉ máu, mắt đẫm lệ, thì tâm thức mới thể nhập vào sự diệu huyền biến hoá của vũ trụ. Như một con dao được trui rèn trong lửa, đập phá nhiều lần bởi người thợ rèn, con dao ấy mới có công năng chặt đứt được sự vật. Nếu một con người không trưởng thành từ trong đau khổ, con người ấy dễ bị thời gian đào thải. Nếu một con người không đương đầu, mặc nhiên, chấp nhận, ý thức thường trực về nỗi thống khổ và tìm phương thoát ra, thì con người đó không thể thoát được khổ đau.

Cuộc đời vốn đầy dẫy sự bất công và đe dọa bởi thực trạng khổ đau, không một ai dành cho chúng ta sự hạnh phúc bình an và nếu có đi nữa thì sự bình an do kẻ khác mang đến trao tặng, đều kèm theo điều kiện. Sự ích kỷ, ngộ nhận, bóp méo sự thật, vốn là một tâm lý nằm sẵn trong mỗi người, được dịp và đúng thời điểm là con người dán chặt vào đó những nhãn hiệu, những móc ngoặc, tạo khủng hoảng cho chính mình và đối tượng. Con người tìm mọi cách để thấy mình hơn kẻ khác, những phương cách lọc lừa, mưu mẹo đều được đem ra trắc nghiệm, xử dụng. Nhận lấy điều nầy, là sự đau khổ, bất an xuất hiện, dĩ nhiên không một sự hơn thua nào mà không bắt nguồn từ khổ đau, gây nên khổ đau. Con người vốn đã không nương tay với nhau khi hành động, khi được dịp họ chỉ cần chiến thắng, dù sự chiến thắng được xây đắp trên nỗi khổ, nỗi đau của kẻ khác, dù sự chiến thắng ấy phát xuất từ sự sai khiến của tâm lý phức tạp, trải qua những xáo trộn trong tận cùng tư tưởng, và do vô minh chủ động. Cho dù sự chiến thắng ấy có đồng nghĩa với chiến bại, thì trong nội tâm họ vẫn muốn làm kẻ chiến thắng, và đương nhiên không một sự chiến thắng nào mà không đưa đến mất mát, đau khổ.

Thông thường những phương cáchcon người dùng để giải quyết khổ đau là tạo ra những cuộc vui giả tạo, tìm hạnh phúc trong sự bất chợt, nắm bắt, hoan lạc, trong ly cà phê điếu thuốc, trong khói hương ngây ngất của cuộc đời, bên những ly rượu mạnh để giải sầu. Thực ra đây chỉ là phương pháp tạm thời, chứ chưa phải cứu cánh, điều hẳn nhiên không một cuộc vui nào lại không chóng tàn, không cơn say nào mà không tỉnh. Con người trốn chạy khổ đau bằng cách tìm vui, nhưng vui lại là nguyên nhân của khổ, khi vui vừa tàn sự trống trải, cô đơn, chán chường, và điều muốn tiếp tục vui nữa lại dâng cao, cứ thế đẩy dần ta vào vũng bùn đen tối, chôn chặt trong hố thẳm không biết lúc nào ra khỏi.

3, Bùng vỡ của tâm thức

Con đường vượt thoát ra khỏi chính nó là phải nhìn thẳng, quán chiếu vào lẽ sinh diệt của nó, hãy yên lặng để thấy nó len lõi đi vào, một khi không tạo được sự tác động gây hấn, thì chính nó sẽ hủy diệt. Thân phận con người như điếu thuốc đang cháy dần, nếu người hút thuốc muốn tìm thêm khói cảm trong đó mà hít vào thật nhiều, dĩ nhiên sẽ chóng tàn hơn, và nếu không hít thì điếu thuốc đang cháy cũng vẫn phải tàn. Vì thân phận con ngườithân phận của bèo mây tan hợp.

Khi sự vật đưọc hình thành để rồi tự nó hủy diệt, một đóa hoa tươi đẹp đang khoe sắc dưới nắng hồng ban mai nhưng trong đó đang có sự hủy diệt trong từng phút giây và ngày mai kia hoa sẽ héo tàn rơi rụng theo thời gian. Thời gian là khởi diểm của tồn tại và là kết quả của diệt vong. Thời gian được đặt ra để đo lường sự hiện hữu và mất mát, sự liên tục của nó tạo cho con người cái cảm giác trường cửu, nhưng trong đó sự biến dạng liên tục chi phối, từ ban ngày chuyển thành ban đêm, từ đêm trở lại ngày, nối tiếp nhau đi qua trở lại. Cái có và không xuất hiện ở một kết hợp, khi duyên không còn tự tiêu vong. Nếu không có cái không thì hẳn nhiên không có cái có, và ngược lại sở dĩ chúng ta trông thấy đưọc cái có thì cũng nhờ cái không bao bọc chung quanh nên cái có hiển lộ. Nếu sơn hà đại địa nầy chất đầy cả cái có, không một kẻ hở để cái không xen vào thì sao gọi là có được. Như vậy cái có nương vào cái không, cái không nương vào cái có, nương với nhau mà thành, duyên với nhau mà hợp " có thì có tự mảy may, mà không thì cả thế gian nầy cũng không" .

Con người vốn lẩn quẩn trong vòng sanh diệt, chấp có, chấp không, tha hồ nắm bắt, nhận giả làm thật, lấy mê làm ngộ, đến khi vụt mất khỏi tầm tay sinh ra tiếc nuối khổ đau, do vì vô minh tạo ra những cảm tưởng mê mờ. Nếu muốn vượt thoát tử sinh, cần phải quán chiếu vào nội tâm, tìm về uyên nguyên của giác ngộ, uống ngụm nước đầu nguồn. Giác ngộ không tách rời vô minh mà có, muốn được điều này cần phải trực nhận vào tận gốc rễ của vô minh, nhận rõ chân tướng của sự thật trong mọi khía cạnh nhận thức. Vượt lên đối đãi, chấp trước, phân biệt, kiểm chứng và duy trì nội tâm bằng chánh niệm một cách liên tục không gián đoạn, không một kẻ hở, chúng ta mới có thể đoạn trừ được vô minh, vén màn cho sự giác ngộ. Nếu giác ngộ là sự chấn động toàn diện tâm thức con người, vượt thoát tử sinh, thì vô minh khi chưa giác ngộ vẫn có ý tưởng ngược lại, đẩy lùi con người vào hố thẳm ngút ngàn của tử sinh. Chỉ cần chúng ta dốc sức bình sinh xoay chiều thì công năng và kết qủa sẽ trái ngược, cũng cái tâm nầy chúng ta thành Phật và cũng cái tâm nầy điên đảo tử sinh.

4, Hoán chuyển đối nghịch

Giác ngộ là sự bùng vỡ của tâm thức, chuyển hoán từ vô minh thoát ly ra ngoài mọi ràng buộc, không còn niệm phân biệt, hiển lộ nên chân tâm, bặt hết duyên trần, những kiến giải, quan niệm đều bị vỡ tung khi ánh sáng giác ngộ chiếu vào soi sáng. Trong Kinh Pháp Cú có đoạn:

Trong vòng sống chết vô tận

Ta chạy mãi không nghĩ ngơi

Từ bào thai nầy sang bào thai khác

Đuổi theo người chủ ngôi nhà

Chủ nhà ta phát giác mi rồi

Mi không cất nhà lại được

Kèo cột gẫy hết rồi

Mái sườn sụt đổ hết

Tâm lìa hết tạo tác

Tất cả diệt trừ xong.

Cái hoát nhiên đại ngộ là khi nhìn thẳng vào chân tướng của sự vật, một khi vọng động dừng lại thì cả càn khôn hiển lộ. Điều này không nằm trong kiến giải mà là sự thử thách cam go, trực nhận không một giây tách rời, cầm giữ thanh gươm trí tuệ sẵn sàng chặt tan mọi ràng buộc động niệm, đẩy lùi tất cả đến tận cùng, chuyển hoán sự đối nghịch, trở thành chất liệu nuôi dưỡng giác ngộ.

Vô mình đã nằm trong sâu thẳm, thì sự tỉnh thức trong từng niệm đã cắt đứt và cuốn phăng đi chặng đường tồn tại của nó, khi giác ngộ vụt khởi trạng thái nầy không còn một mảy may tư tưởng, kiến giải, đối tượng. Chủ thể và khách thể hòa cùng một thể, đó là thể của giác ngộ, dĩ nhiên giác ngộ không phải tiến trình đi tới của tri thức mà là sự quật khởi nội tâm, buông bỏ sự níu kéo nắm bắt, vượt thoát những ý thức sai biệt. Sự nối liền giữa vô minhgiác ngộ như đường tơ kẻ tóc, nếu không nhận ra được đâu là nguồn cội, thì tự nó là hố thẳm nghìn trùng xa cách, một khi nhận chân ra được thì trong tích tắt mọi ngăn ngại đều đánh bật ngã. Sự hoát nhiên giác ngộ liền xâm nhập vào tâm thức, như một làn chớp bất chợt xuất hiện chỉ trong sát na. Trong Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:

" Thiện tri thức đừng trụ bất cứ ở đâu, ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do. Đừng để tâm chấp trước thì thông suốt hết không gì vướng mắc. Kẻ ngu nếu bổng chốc trí sáng tâm mở thì với người trí chẳng sai khác.

Thiện tri thức khi chưa ngộ Phật là chúng sanh như ta, phút chốc ngộ rồi thì ta chúng sanh tức là Phật. Thế mới biết tất cả đều ở nơi tâm. Vậy sao ta không biết tự nơi tâm thoắt thấy ngay cái bổn tánh chân như. "

Huệ Năng là một chú tiều đốn củi nuôi mẹ, nghe một người tụng kinh Kim Cang đến câu " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm " ngài hốt nhiên đại ngộ. Cái ngộ của ngài không nằm trong suy luận, so đo tính toán, mà là sự tiếp nhận thẳng vào tâm thức. Càng suy luận càng tách rời chân tâm, không giúp được gì cho giác ngộ, “khảy mổ cùng một lúc”, hành động nhịp nhàng ăn khớp trong một thời điểm nhất định, ngộ là ngộ tức khắc, không chần chừ, so đo phân biệt, và không ngộ là không ngộ chứ không có kiểu nửa tỉnh nửa say.

Ngài Hương Nghiêm có lần nói: " Ví như có người lơ lững trên miệng vực sâu muôn trượng, răn cắn vào một cành cây, chân thòng giữa hư không, hai tay không bám vào đâu được. Lúc ấy có người đi ngang qua hỏi vọng lên, nếu người trên cây mở miệng trả lời thì rơi xuống vực sâu mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ người hỏi. Trong phút giây nguy kich ấy, người đó phải làm sao? "

Giữa cái chết và cái sống, giữa cái mê và ngộ, giữa sự trả lời và không, quả thật lúc ấy không còn gì để mà biện luận, cân nhắc tính toán, hể mở miệng ra để trả lời thì rơi xuống hố sâu muôn trượng tan thân nát thịt. Lúc ấy chỉ còn " Làm thinh như chánh pháp, nói năng như chánh pháp ".

Một cuộc sống an lành là khi không còn bị trói buộc bởi nội và ngoại tại nữa, vì tất cả những dính mắc đều phải tốn công nhọc lòng tháo gỡ, hể còn phải tháo gỡ thì vẫn còn phiền não, khổ đau. Nếu ở trong tâm bặt hết duyên trần, ở ngoài không đắm trước, thì không một hành động nào làm hoen ố được, ung dung tự tại mà bổn thể hoàn toàn vô nhiễm. Điều nầy quả thât là khó, nhưng tử sinh, luân hồi sống chết vô tận, làm cho chúng ta quá chán ngán rồi, điều may mắn còn làm được thân người, ngay từ bây giờ nếu không vận dụng cả bình sanh, xương tủy, máu thịt trong người thì khó mà thoát ra. Buông bỏ tất cả, theo dõi tâm mình, tỉnh thức trong từng động niệm, những vọng niệm nào cản trở giác ngộ, cần phải chặt phăng nó đi, duy trì chánh niệm một cách liên tục, một ngày nào đó giác ngộ sẽ bùng vở. Nếu buông thỏng nội tâm không kiểm soát, phó mặc cho duyên trần, thì muôn kiếp vẫn phải tử sinh, trôi lăn vô tận.

5, Tâm an tịnh

Sự vượt thoát tử sinh tìm về giác ngộ là điều tối cần, mục đích của Đạo Phật giải phóng con người ra khỏi khổ đau, đạt đến giải thoát hoàn toàn. Giải phóngthoát ly ra ngoài mọi đối đãi, không còn dính mắc ở khía cạnh hay góc độ nào, còn níu kéo thì còn bị trì trệ ứ đọng, buông xả tất cả. Tâm con người tựa như dòng nước chảy, nó có thể cuốn phăng đi tất cả, nhưng ngược lại nó vẫn có thể bị ô nhiễm, điều quan trọng cho sự tìm về giải thoát là phải lắng đọng chính cái ô nhiễm đó. Thường trực quán chiếu không khơi dậy dòng nước dục, không tạo những chuyển động để ô nhiễm tái sinh, luân lưu nhưng không nhiễm ô. Dòng tâm thức nếu ngăn chận dễ phát sinh ra những nguy hại, như dòng nước đang chảy xiết nếu ngăn lại tất nhiên nước sẽ phá bờ, chảy lan tràn. Cho nên cứ mặc nhiên để nó tuôn chảy, chỉ cần lắng đọng, ý thức một cách liên tục rõ ràng sự lưu chuyển ấy, tươi mát trong suốt là điều cần thiết cho hành trình vượt thoát.

Giải thoát không có nghĩa chối bỏ trốn chạy cuộc đời nầy, vì chỉ trong cuộc đời nầy mới tìm thấy sự giải thoát, bên cạnh khổ đau phiền não thì giải thoát mới có ý nghĩa tuyệt diệu. Nếu cuộc sống lúc nào cũng bình an, hẳn nhiên không cần giải thoát và không cần tìm phương vượt thoát. Sở dĩ điều này phát sinh cũng chính từ sự ràng buộc chìm đắm trong khổ đau. Bồ Tát mang hạnh nguyện độ sanh, nên quốc độ của qúy ngài là thế giới khổ đau, hể còn khổ đau thì còn phải giải thoát, ngoài điều nầy ra Bồ Tát sẽ không còn đối tượng để phục vụ và đất để dung thân. Qúy ngài xuất hiện cũng chính vì cuộc đời đầy dẫy khổ đau, khi không còn khổ đau lúc ấy không còn qúy ngài nữa, tự động biến mất.

Nếu tâm con người được an tịnh trong mọi chiều hướng, có nghĩa chúng ta đã giải thoát ở một vài khía cạnh nào đó, ít ra sự bình an trong cuộc sống. Giải thoát không có nghĩa vượt thoát được tử sinh, khi chưa thật sự thể nhập vào uyên nguyên của nó. Đó chỉ là một chặng đường chứ chưa phải rốt ráo cho một hành trình, đó chỉ là nền móng chứ chưa phải ngôi nhà thật thể, đó chỉ là cánh cổng để hành giả bước vào ngôi nhà giải thoát, vào được hay không, an trú lâu dài hay không, đều tùy thuộc vào mỗi người và đó mới là vấn đề trọng đại.

Có những lúc trong một cuộc hành trình dài, ta hay dừng lại để nghỉ ngơi, nhưng do mãi vui hay lầm tưởng đó là cứu cánh, nếu không dụng tâm rốt ráo ta vẫn còn sự ngự trị của vô minh. An phận và lầm tưởng vẫn là điều cố hữu trong mỗi chúng ta, nó tạo ra khuynh hướng phụ thuộc biếng nhác, mặc nhiên. Mặc nhiên trong ý nghĩa chấp nhận trôi lăn trong dòng đời, chứ không phải mặc nhiên trong ý nghĩa cùng tuyệt của giác ngộ, giải thoát. Chính những điều ấy tạo nên sự dừng lại bên cổng của ngôi nhà, muốn vào được bên trong, trước hết và trên hết sự an tịnh nơi tâm thường xuyên ngự trị, không còn dính mắc nơi ngôi nhà và người đi vào, thể nhập trọn vẹn hòa đồng, không một hình thái vướng bận nào, dù vi tế cuả tâm thức.

Giải thoát không đòi hỏi nhất thiết cho một tương lai, quá khứ không níu kéo lại được, tương lai thì quá xa vời, chỉ có hiện thực là quan trọng, cho nên những tác động cần phải tác động ngay trong hiện tại, ngoài điều nầy ra tất cả đều trở nên vô nghĩa và không giúp được gì cho hành trình giải thoát thật sự. Hiện tạinền móng cho tương lai và quá khứ cũng gắn liền ngay từ bây giờ, nếu hiện tại còn sự xô bồ, sanh diệt, phân hoá tiếp nối, thì hẳn nhiên tương lai cũng như vậy. Khi đã gieo nhơn sanh diệt thì quả không thể sai khác, cho nên cần phải tác động cho một hiện tại không sanh diệt, chỉ khi nào không sanh mới không bị diệt.

Trong Chứng Đạo Ca có ghi lại cuộc đối thoại hào hứng của nhà sư Huyền Giác với Lục Tổ Huệ Năng. Huyền Giác mang tâm trạng hoang mang giữa mê và ngộ, sinh tử, vô thường, tìm đến gõ cửa Huệ Năng và đặt vấn đề sống chết lên trên, một vấn đề trọng đại gấp rút, cần phải giải quyết ngay tức khắc " Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm " Sanh tử vẫn là chuổi dài vô tận, vô thường tấn tốc không chờ đợi một ai, khi nó đến chỉ trong một hơi thở thân mạng không còn. Huyền Giác đưa vấn đề của kiếp nhân sinh ra, và Huệ Năng đã giải quyết "Sao chẳng nhận cái lý không sinh, thấu rõ cái nghĩa không chóng" Câu nói nầy như một đòn thí mạng đánh vào tâm thức, nhưng nhà sư đã thoát hiểmmay mắn đạt được tâm Phật nhờ bộ kinh Duy Ma, nhưng phải nhờ Huệ Năng ấn chứng cho.

6, Lối trở về

Chặng đường tìm về giác ngộ vưọt thoát đã thênh thang, chỉ cần chúng ta bưóc vào với tâm trạng tha thiết cầu mong, dốc cả tâm huyết của mình thể nhập vào cái diệu huyền, niềm tin mãnh liệt vào sự giải thoát ngay trong hiện tại cần phải thực hiện. Lối trở về đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân khắc ghi kỳ công, đánh phá trong thẩm sâu của dòng tâm thức một cách liên tục, thì sự đổ vở ảo tuởng do vô minh chủ động, mới không còn cơ hội tồn tại. Như hoa đốm ở giữa hư không vốn không thật, vì do con mắt bị nhậm mới sinh ra ảo tưởng như vậy, khi mắt hết nhậm thì làm gì thấy được hoa đốm.

Sự sanh diệt, phải đánh đổi bằng cái vô sanh vô diệt, vô thường phải đưọc thay thế bằng cái thường còn bất biến. Cả một kỳ công và cả một tâm niệm không còn ngự trị, móng dậy của sát na sanh diệt nào, lý lẽ nầy như một thoại đầu, cần phải nghiền nát thì mới vỡ ra ở kiếp nhân sinh nầy. Nếu không thì muôn kiếp phải đắm chìm trong khổ não, nổi trôi giữa dòng thác loạn tạp nhiễm, cái hoang mang ray rức giữa trạng thái mê ngộ, dỡ sống dỡ chết, giữa cái sinh và vô sinh diệt, một khi không còn vọng động thì chân như hiện diện, then chốt cuối cùng cần phải ấn mạnh mở tung, nếu không thì sự trở về vẫn còn là khúc quanh trong cuộc đời.

Sự khác biệt giữa căn cơtrình độ, không cần thiết cho sự trực nhận về giác ngộ, ứng dụng vào thực tế mới là điều cấp bách, cứ việc gõ cửa thì cửa sẽ tự động mở, sự kiên nhẫn và chờ đợi để đưọc mở cửa, đòi hỏi chúng ta phải biết cách gõ và chờ. Gõ sao cho đúng nhịp, thì âm vang đinh tai nhức óc của nó, khiến cho vô minh run sợ khiếp viá trong âm hưởng vô tận. Một khi cánh cửa được mở tung, chúng ta lập tức bước vào ngay không so đo, chùn bước, đó là cơ hội nghìn vàng, dịp may hiếm có mà suốt cả dòng nhân sinh, chúng ta mới có cơ may bắt gặp, nếu buông lơi vụt mất cơ hội, thì không biết lúc nào mới gặp lại. Như chú rùa một mắt biết khi nào mới gặp bộng cây trôi trên biển, chú rùa vẫn phải lặn hụp trong dòng biển mặn bao la, trong khi khúc cây cứ lững lờ trôi về nơi vô tận, mặc cho chú rùa gào thét quờ quạng, thẩm sâu của đại dương là ngôi mộ chôn chặt chú. Chỉ còn lại tiếng gầm thét của biển khơi, của những đợt sóng tiếp nối.

Làm sao và làm sao vượt thoát? Một câu hỏi gắng liền với quảng đời còn lại, một công án đánh động ray rức ngay trong hạnh phúc, khổ đau, hỷ lạc, trong sự say đắm của lý lẽ vô sanh vô diệt. Nếu cái đích cuối cùng không tóm thâu, thì cả một hành trình không cơ may tồn tại lâu bền. Chư Phật và Bồ Tát đã thể nhập trọn vẹn vào cái thường còn, nên lúc nào cũng thấy đưọc cái lẽ vô sanh ở trong cái sanh diệt, cái ngộ trong cái mê, giải thoát trong khổ đau. Với chúng ta còn mịt mù xa thẳm, thì làm sao và lúc nào mới đến được đầu nguồn của giải thoát?

7, Chiếc bè

Khi nào cứ điểm cuối cùng thâu tóm và ngự trị rồi, thì lúc ấy cả một bình sanh còn lại, không cần dụng công mà vẫn như dụng công, hành mà vô hành. Chặng đường nào, nếu không khéo dụng công thì chặng đường đó có muôn lối, lạc buớc rơi vào hố thẳm ngay. Trí tuệ sáng soi, ý lực vượt thoát tử sanh, đều phải trải qua thử thách cam go, hành giả phải cẩn trọng, dò dẫm từng bước, đạt được trạng thái liễu ngộ chân tâm, thấy đuợc mặt trời chân như chiếu rọi, theo đó mới không lạc lối, lúc ấy mới không dọ dẫm nữa, mà phải lao mình cho thật nhanh đến đích cuối cùng. Nương vào ngộ để đến giải thoát, nương vào chiếc bè để qua sông, khi qua được bờ kia đừng quên bỏ bè lại cho dòng sông, đừng vác theo làm gì cho mệt xác, nơm dùng để bắt cá, được cá rồi thì quêm nơm, hạnh nguyện độ sanh phải lập thệ, đừng an hưởng trong niết bàn chứng đắc.

Hành trang cho ngày trở về phải được chuẩn bị, trăng thanh đang soi đường, hoa thơm đang chờ đón, hương lạ được kết tinh bằng giải thoát. Chúng ta chỉ cần lập thệ dấn thân, dụng công liên tục, chắc hẳn ta tìm thấy được một bình minh tươi sáng, hạnh phúc trong vòng khổ đau, giải thoát trong vòng ràng buộc. Phải uống trà mới thấy đưọc hương vị ngọt ngào của nó, trong cái thẩm sâu mênh mang, vượt thoát là tối cần.

Như Hùng
Tạp chí Chân Nguyên, số 1 tháng 10 năm 1985
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9641)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10204)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 20543)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11716)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 46826)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12166)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11854)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 17958)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10224)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17907)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 18288)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 17122)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11545)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 11712)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19923)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 7237)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 9282)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 14967)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 18727)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15347)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17399)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29867)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31663)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 32935)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 30931)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 32709)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39450)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40563)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50288)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 16173)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 25574)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 17887)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 33430)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 39752)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 44126)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23183)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 44185)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42984)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44524)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 39315)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 19324)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35750)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24300)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 20469)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 19102)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 19006)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 19389)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 20406)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 15640)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 36407)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 20399)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 31620)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15995)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 36032)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 34515)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19555)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 19003)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 23001)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20246)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18437)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant