Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Số Tức Quan

14 Tháng Tám 201516:28(Xem: 5555)
Số Tức Quan

SỐ TỨC QUAN

Tổ sư Minh Đăng Quang

Số Tức Quan

Số tức quan tức là quán xét hơi thở mà đếm số. Đức Phật Thích-ca khi xưa dưới cội bồ-đề, ngồi trên tòa cỏ, xét đếm như vậy.

Số tức quan phát ra trong khi gần nhập định, chớ chẳng phải mượn số tức quan làm đề mục niệm, để đặng thiền định. Nghĩa là khi xưa đức Phật, trong khi ngồi nắm hai tay lại, cương quyết không làm cử động; tréo hai bàn chân, lật mặt bàn đi trở lên, nhứt quyết không đi đứng; ngậm miệng cắn khít răng lại, nhứt định không nói năng; con mắt ngó xuống ngay một chỗ, rồi từ từ nhắm lại, đứng tròng mắt một chỗ dưới, là Ngài tập chết, nguyện định mắt cứng chết luôn, không cần mở ra; lỗ tai nghe trở vô vắng lặng như đã chết rồi, đang ở trong cảnh võ trụ im bặt; lỗ mũi hít một hơi vô thật dài sau chót, và thở một hơi ra cuối cùng, rồi nín luôn tắt nghỉ, lặng tâm như sự đã chết, không còn biết chi; sau những lúc tìm xét về đạo lý với sự đời; sau những lúc mệt mỏi, chán nản, giác ngộ, thấy ra không còn muốn sống. Ấy tức gọi là nhập Niết-bàn, nhập định, nhập vào cảnh vắng lặng đứng ngừng của chơn lý võ trụ.

Nhưng bởi trong lúc ấy, bộ máy xác thân còn chạy, lửa bên trong chưa tắt, máu nóng vẫn thay đổi làm cho hơi đọng trong buồng phổi phải xuống lên nhẹ nhàng thoi thóp, chẫm rãi từ từ, đó là cảnh trạng của một người sắp chết, sẽ chết, gần chết.

Kìa như một người chết giả, một người bất tỉnh, một người ngủ say, một giấc ngủ ngon, một cái chết sướng của một người muốn chết muốn ngủ, sau sự tìm xét thấy ra cõi đời, là muốn chết mãi, ngủ mãi, chỉ muốn sự nghỉ yên là hơn.

Cái chết ngủ nghỉ đối với tâm hồn còn tham sống, ham thức, muốn tưởng nói làm là rất khó chịu phản đối, nặng nhọc khó khăn, chớ với người ưa thích giác ngộ thì thật rất dễ dàng.

Trong những lúc ấy, trí của họ nghỉ yên, sung sướng khoái lạc. Họ không có cảm giác gì nữa. Họ mãi cứ yên lặng, biết trong yên lặng, sống trong yên lặng, hư vô; mọi vật như đã đứng ngừng, im bặt đối với họ, tinh thần của họ đã gom hiệp lại lần lần, điện lực dung hòa sẽ thường sanh chớp nhoáng, thông lưu; thần gom là mắt trụ, khí sống tức ngậm hơi, tinh kết bởi ngồi ngay lửa đủ, nhờ đó mà điện phát sanh mau lẹ, trong ngoài túa ra khắp cùng. Bấy giờ người sống bằng ý giác, thơ thới, nhẹ nhàng; tiếng quả tim đập nhẹ chậm mà nghe ra như tiếng trống to, như đờn âm nhạc trổi lớn, có đủ nhịp nhàng, nhưng tâm không chú ý đến; ấy là giờ khắc của võ trụ, còn mỗi kiếp sống là mỗi hơi gió rút thâu vào, trả đẩy ra, điều hòa chậm chạp! Bởi tâm hồn tỉnh táo, phách giác thức yên, nên chỉ còn thấy ra xác thân là hơi thở, mỗi hơi thở như mỗi kiếp xác thân, trải qua mỗi hơi rút vô như sanh thân ra, mỗi hơi trả ra như chết mất vào, vào trong lòng mẹ bao la võ trụ. Cõi đời đối với người là hơi thở mau chóng, gồm thâu tất cả thời gian sự việc, rồi lại phủi xóa xô đi, như lẹ làng không mến tiếc. Khi ấy người không còn chú ý thở, nhưng tự xác thân nó vẫn thở lấy. Tâm người đã định yên, còn hơi thở, còn thân, hay không còn hơi thở, không còn thân cũng được. Người chỉ biết sự chết, ngủ nghỉ, đứng ngừng yên lặng, tự nhiên không vọng động, không không tất cả.

Những lúc đầu, người chưa được tự nhiên thì hơi thở ấy nó sẽ là bạn thân của người nương tựa, nó cũng như vầng mây dưới chưn để đưa tâm hồn người lên đến cõi tột cao hư vô tự nhiên, khi đến nơi rồi thì không còn kể đếm bảo giữ vầng mây hơi ấy. Nghĩa là trong lúc mới đầu, tâm còn nặng nề thì nương đó, lâu nhẹ lần là sẽ bỏ luôn. Hoặc là cái ý giác lúc đầu còn chấp té nằm nơi đó, rồi sẽ từ từ đứng dậy bay đi.

Hay cũng như lúc mới còn vọng động xao lãng nên phải kềm giữ ý giác ở một chỗ hơi thở, để rồi tập lần bỏ qua quên dứt, cho đến tự nhiên như nhiên, trong lúc lãng quên hơi thở chưa được, còn như đếm từ hơi, chờ giờ chết, còn quán tưởng nhận xét thấy nó, kêu là số tức quan vậy.

Số tức quan vẫn có nơi người hấp hối, muốn chết, ngủ nghỉ không vọng động, rồi sau lại là nó sẽ mất luôn, không còn, nên gọi là số tức quan không có, không có thật, vì nó vẫn tự có trong khi ấy, rồi tan mất, nên không ai muốn bảo giữ, Phật Thánh xưa kia đã phải như thế, chớ không phải là pháp muốn sống thức, vọng động mà luyện tập.

Nhưng nếu có ai muốn đuổi xua phiền não chốc lát tập định, nhận xét đếm số hơi thở cách ấy, cũng đỡ khá lắm, vì sẽ mau lãng quên thế sự và ngủ nghỉ như chết, rất dễ dàng.

Như thế thì số tức quan không bao giờ có nơi người còn thấy mình quan trọng địa vị, nặng nợ với xã hội, gia đình thế sự; không có nơi người còn muốn sống, thức, tưởng, nói, làm thái quá bất cập.

số tức quan là trung đạo, nấc thang của nhập định, trái ngược với sự vọng loạn.

Nhưng nếu sự cố luyện tập của người, cốt ý cho giác ngộ, để khi giác ngộ rồi là sẽ không còn chấp sống, thức, xao động, thì số tức quan xuất hiện, kềm giữ cho người sự giải thoát trong sạch, để tiến đến Niết-bàn đại định.

Kết quả của số tức quan là nhập định. Kết quả của nhập địnhcon người còn thân hay mất thân cũng được, miễn đặng một tinh thần đầy đủ, ý giác linh thiêng chơn như tròn sáng, chủ tể chắc thật hột giống tồn tại của cái ta, nó sẽ là ta.

Đành rằng số tức quan đối với người nặng nhiều nghiệp vọng là khó lắm, nhưng mà cũng nên hãy rán, tập tu lần lần, vì nó sẽ giác ngộ, giải khổ nghiệp cho người rất nhiều. Còn những ai tâm đã được thanh tịnh dứt nghiệp là sẽ có nó tự nhiên, hoặc vượt bỏ hẳn nó bằng sự nhập định xem mình như chết, ngủ nghỉ đã lâu đời.

Khi xưa đức Phật cùng chư A-la-hán nhờ giác ngộ thế ấy mà được nhập định, và phát thần thông trí huệ. Mặc dầu là xác thân chưa phải chết, ngủ nghỉ luôn, pháp thần thông chưa đủ đầy, chớ trong khi nhập định được từ một đến năm bảy ngày thì sẽ được sáu phép thần thông từ lần.

Sau đó các Ngài còn phải chờ đợi tiếp dẫn chúng sanh theo lời kêu gọi, nên sự tu cho mình phải bớt lại phân nửa, để đặng vừa lo cho mình mà cũng giúp đỡ cho người. Nhưng những việc làm bên ngoài ấy, các Ngài tùy nhơn duyên, làm xong là bỏ qua, gặp làm không thôi, chớ không tìm vọng. Các Ngài không xem địa vị mình là quan trọng, hay bắt buộc phận sự. Trong tâm lúc nào cũng thấy mình như chết, ngủ nghỉ, còn thân xác là số tức quan. Nhờ đó mà sự giác ngộ trí huệ thần thông của các Ngài không lui sụt, nhưng phép đi tới thì hơi chậm lại một chút; tuy kém về mặt đó chớ với sự độ đời thì phước đức trí huệ toàn giác, sẽ chóng mau tròn, là chơn như sẽ càng tăng thêm, và nhập định bằng cách thứ hai khác do từ bên ngoài vào làm cho đạo quả cũng vẫn tròn đủ y nhiên nảy nở mau lẹ, không kém sút, nhờ đó mà gồm luôn được hai tên Đạo và Đức một lượt.

Ấy cũng vì số tức quan ích lợi nên về sau có lắm cách tu, luyện tập bằng hơi thở, mà người ta chỉ chăm chú tại hơi thở, chớ ít ai nhận xét ra được, số tức quan có sẵn nơi mình, nơi bậc trong sạch dứt nghiệp. Những sự hô hấp ấy cũng có nhiều lợi ích. Ví như có một người kia tập như vầy: Hơi thở hít vô kéo dài nhẹ nhẹ, niệm tưởng thầm rằng “Nam-mô A” chẫm rãi đến mãn hơi, dội trở ra kéo dài nhẹ nhẹ, niệm tưởng thầm rằng “Di Đà Phật” chậm rãi đến mãn hơi; thâu vô trở lại, niệm tưởng nữa làm thành vòng tròn, bằng sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” và liên tiếp những vòng tròn. Đi đứng nằm ngồi đều niệm mãi, tập không cho bỏ sót một hơi thở nào, trừ ra lúc ngủ quên, hay khi nói chuyện. Kẻ ấy bằng định tâm được như thế cũng khá, lục căn sẽ thanh tịnh lần, và sẽ đến được giác ngộ, của chết, ngủ nghỉ, số tức quan mực trung mà đắc định. Vì khi niệm ghi nhớ lâu sau đã quen, là sẽ không còn niệm sáu chữ ấy, mà như lúc nào cũng vẫn có, in trí vào hơi thở, chừng đó là còn hơi thở, càng ngày càng nhẹ nhẹ lần, cho đến sau rốt chỉ biết có chết, ngủ nghỉ bằng hơi thở thoi thóp tự động, ấy là số tức quan, do đó mà đặng nhập định. Kẻ ấy niệm Phật danh như thế là để mượn đức tin ủng hộ, cho tinh tấn ham mộ, chớ hoặc như hơi vô đếm một, hơi ra đếm hai, mãi đếm một hai hoặc đến bao nhiêu cũng được. Có người niệm tưởng một câu pháp, niệm danh hiệu Phật khác, hoặc một cái chi, đề mục nào cũng nên ích lợi, vì cốt ý là để trụ tâm. Những kẻ yếu tâm hay loạn thì trước hết niệm ra tiếng cho quen, kế đó niệm thầm cho tai nghe theo hơi thở, tiếp nữa không niệm mà hơi thở quen chừng như có niệm, sau rốt mất niệm mà hơi thở vẫn đều hòa khỏe nhẹ, như đến cảnh trí chết, ngủ nghỉ là số tức quan hiển hiện, để đưa vào nhập định. Số tức quan ấy kêu là vầng mây bay đưa vào xứ Phật.

Cũng có kẻ mới lúc đầu niệm danh Phật rất nhiều theo hơi thở vô, còn hơi ra thì xả bỏ, kêu gọi là niệm thâu vô, lâu sau còn niệm vô một câu, lần đến còn một tiếng, kế đó nhớ tưởng theo hơi thở mà thôi niệm, nhưng vẫn còn như tưởng tượng, sau đó mới đến số tức quan và nhập định.

Người ta cho rằng hơi thở ấy cũng như vầng mây, vì còn xác thân là còn vầng mây; hơi thở người muốn bay vượt lên cao thì trước hết phải níu bám vầng mây, là tâm niệm theo hơi thở lúc đầu. Khi niệm ra tiếng như lúc kêu gọi cầu cứu với Phật, chừng giác ngộ gặp ra hơi thở niệm thầm theo là như gặp được vầng mây, tòa sen, Phật đã đưa qua cho, thế nên phải níu bám lấy, để cho tâm hồn được nhẹ sạch, cao ráo, bay cao, xa lần lần, dứt bỏ nghiệp trần, đến cõi trời Dục giới, còn sở dục. Khi còn hơi thở niệm tức là đã được ở trong tòa sen vầng mây, đến cõi trời Sắc giới có có; lúc dứt niệm chỉ còn hơi thở, số tức quan, tức là đã lên cõi trên vầng mây bay khá cao, đến cõi trời Vô sắc giới không không. Sau rốt nhập định, không còn biết hơi thở số tức quan, tức là đã đến tột cảnh hư vô Niết-bàn đại định, lìa bỏ vầng mây tòa sen, mà tâm định yên không còn vọng động té ngã nặng nề, tức là đắc đạo, ở luôn trong siêu hình xứ Phật Niết-bàn. Khi ấy không còn cần dùng xác thân hơi thở, tòa sen, thân mất còn cũng được bởi tâm mình đã tự chủ ở không trung (không không trung đạo) nhẹ nhàng. Kẻ sống còn thân mà được như thế thì lúc thác mất xác thân, vầng mây, tòa sen, người sẽ không còn lo sợ tâm té ngã xuống nghiệp trần, lao khổ luân hồi.

Cũng có những kẻ khá hơn, họ không niệm như thế, tùy duyên cảnh mà phát niệm. Ví như trong lúc đói thì họ niệm no no no, vài ba tiếng, nói ra theo hơi thở, rồi sau niệm thầm theo hơi thở ra vô một hơi một tiếng, kế đếm mỗi hơi thở ra vô, họ chỉ còn nhớ tưởng một tiếng no in trí, sau rốt còn hơi thở tự nhiên, êm nhẹ mất hẳn tiếng no và nhập định.

Cũng có người dùng một tiếng định một, hoặc một tiếng chết một, một tiếng ngủ một, hay một tiếng nghỉ một v.v... Người ta dùng một tiếng chi cũng được, tùy theo duyên cảnh; ví như mệt thì nói khỏe, đau thì nói mạnh, nóng thì nói mát, khi buồn thì nói vui v.v... Người ta dùng một tiếng tương đối để làm pháp đối trị giặc nghịch phiền não, đặng an tâm vào hơi thở, mà đến Niết-bàn vắng lặng.

Những phép niệm này lắm lúc rất linh nghiệm là do nhờ đức tin vào một vị Phật Thánh, và sự gom ý định thần, góp điện mà kết quả. Sự kết quả thi thố phép thần thông biến hóa là do ý lực mạnh mẽ của thần điện chớ không phải tại niệm danh Phật mà linh, vì niệm danh Phật, mượn đức tin là phép tinh tấn cho kẻ yếu loạn, còn người vững tâm thì khỏi mượn niệm. Ấy bởi tâm đã định thì dùng đề mục, thoại đầu nào, tên tiếng gì cũng làm cho được định, nên gọi là bậc Bồ-tát đã đắc định huệ là có vô số phép thiền cao viễn.

Ví như vị Bồ-tát trong lúc nóng nực, Ngài nói ra rằng nóng quá, thôi mát đi, mát, tức Ngài mật niệm: mát, mát, mát, từ tiếng một theo mỗi hơi thở ra vô, rồi từ từ in trí vào hơi thở; kế đến hơi thở nhẹ lần nhập định, là sẽ như có luồng gió mát thổi ngay lại, mát lạnh khỏe khoắn vô cùng. Gặp cái chi, việc gì, các Ngài cũng dùng nó mà đếm nhập định và phát thần thông. Thế nên các Ngài biến hóa vô cùng, phép nhập định vô số, cùng giác ngộ thêm lên sáng suốt, đó là số tức quan của bậc cao. Còn như những bậc thấp, hoặc người ta tập sự chăm chú chăm chỉ đếm một, hai, ba, đến trăm ngàn muôn trong mỗi lúc, một con số nhứt định bằng hơi thở ra vào; hay đếm những danh hiệu Phật, mỗi hơi thở mỗi tên, đếm mãi từ xuôi tới ngược, từ ngược tới xuôi, để đặng kềm ý phục tâm một chỗ cho quen, đặng đến lần số tức quan nhập định.

Lại như có người vì xao lãng hay quên, nên tập phép thở ngược như vầy: Người bắt đầu ngồi trói ngay thân thể, mắt ngó xuống, cắn răng ngậm môi, hít hơi vô thật mạnh dài xuống đến khỏi rún, phình bụng dưới ra, và khi tóp bụng dưới lại thở hơi dài mạnh ra ngoài, đếm thầm một; kế đến hít dài mạnh vô, thở dài mạnh ra đếm thầm hai; người càng thở dài mạnh thêm lên, và đếm mãi, theo con số nhứt định, mấy trăm, mấy ngàn mỗi ngày, và càng ngày càng tăng con số ấy. Như thế để cho tâm ý có việc làm, không vọng động bên ngoài, lần lần đi đứng ngồi nằm cũng đều có thở đếm. Sự thở ngược như thế ấy là để cho thái quá, đặng trói kềm tâm, cũng là phép ngừa bịnh, chữa bịnh rất hay; vì hơi thở vô mạnh làm cho nở thông buồng phổi, quạt lửa trái tim xuống, trợ ấm bao tử, mau tiêu hóa vật thực và đem sức nóng giúp cho tinh thận phía sau, làm cho lửa trên dưới thông nhau, chạy khắp cùng mình nóng rực, hơi bốc ra mồ hôi đượm chảy, sanh máu tốt, trợ gan mạnh, giúp sức ngũ tạng làm cho ấm đặc nước tinh ba, sanh hơi khí mạnh, rút lửa trên đầu xuống, mắt sáng, tai thông, đầu nhẹ, trán mát, lưỡi ngọt, mũi sạch. Hơi trong mình bốc ra sẽ đuổi xua độc khí bên ngoài, ngừa bịnh, chữa bịnh tạm mau chóng. Để rồi sau mỗi lúc hơi thở dài mạnh cho mệt ấy là đến lúc mát khỏe nhẹ lắm, hơi thở sẽ bình thường, và nhẹ nhẹ lần nhập định luôn không còn đếm niệm, đó cũng là phép đổi lửa, quạt lửa tùy theo mỗi lúc.

Bằng chẳng vậy, hoặc người ta đếm số từ chặng để dẫn hơi lên xuống từ lỗ mũi tới cuống cổ, tới chớn thủy, tới rún, tới bụng dưới, hay cho chạy khắp thân mình, từng chỗ ý định bằng tư tưởng tập luyện quen.

Như vậy tức là bày ra cho có hình thức hữu vi, cho có thấy việc làm, bằng tưởng tượng, để đặng gom thần nhập định.

Người ta cũng có thể tập nín thở mũi, để thở bằng hai bắp tay, hai bắp chưn, theo lỗ chơn lông.

Người ta có thể sống bằng hơi thở không khí tốt, trong sạch mát mẻ, gọi là ăn không khí, chẳng uống nước ăn trái, cũng như rùa cùng giống qui, nín mũi không thở hoài, vì chân lông cũng thở phụ thế cho được, nhưng rất yếu, ít hơi hơn, nên chỉ có kẻ không nói làm lo nghĩ, ngồi một chỗ luyện tập cho mau đắc định, thì mới dễ thật hành.

Về hơi thở, người ta luyện tập cách nào cũng được, cốt yếu là để tập định, nhưng lúc hành thì phải kinh nghiệm, xem chừng từ chút sự khác lạ, kẻo thái quá bất cập có điều trở ngại, tai hại cho thân thể, làm mất an vui tấn hóa. Người ta cũng có thể cần phải biết ra nhiều cách thở, để đặng thay đổi pháp hành tùy theo nhơn duyên trình độ, cho đặng thuận tiện tinh tấn. Hơi thở là một đề mục trong muôn ngàn đề mục thiền định, chớ chẳng phải một môn độc nhứt để đến thiền định. Nhưng phong tục ở xứ này, phần nhiều có học tiên gia, tu theo pháp hữu vi, chấp có hình thức, mau hiệu nghiệm, lại dễ làm cho lớp kém, nên ham thích hơn pháp vô vi tự nhiên, theo chơn lý vĩnh viễn thường bền của võ trụ nhà Phật; mà dầu sao cũng được, hãy cố gắng giác ngộquý báu, vì sự đi mau cũng có lắm khi đến chậm hơn người chẫm rãi bình thường mực giữa.

Phép đếm tưởng hơi thở vẫn hay chẳng bì đặng phép ngó chừng trái tim, mà bởi có thấy dễ làm nên ai cũng chú ý đến. Hơn nữa là nó cũng có phép ngăn đón, ngừa bịnh, được sống dai, tươi trẻ, khiến cho ai ai cũng tham muốn sự phản lão huờn đồng ấy.

Tất cả những phép tu tập hơi thở có khó dễ khác nhau, nhưng chẳng có cách nào qua lẽ tự nhiên bình thường này: Là người ta phải đừng cố ý chăm chú vào riêng hơi thở, nhưng người ta mỗi lúc nào cũng phải ngăn đón sự thái quá thở mạnh, cùng bất cập thở nhẹ, tức là phải giữ làm sao hơi thở được mực trung điều hòa nhau như sợi dây ngang thẳng chẳng cho gợn sóng, như cái vòng tròn không cho móp méo. Nghĩa là không có tu luyện mà phải làm sao hơi thở của tâm, hơi thở của trí, hơi thở của thân hòa nhau một mực, ấy là đắc đạo, đắc đại định, trung đạo, chánh đẳng chánh giác. Đó là một pháp tu chơn đúng lý, rất giản tiện, thật thông thường, nhưng chúng sanh thì thái quá bất cập đã quen, nên khó lòng bền chí thật hành.

Vậy thì tất cả các phép tu không có phép nào qua sự tự nhiên, vì tự nhiên chơn như là định, trung đạo, còn các pháp tu là dùng trừ thái quá bất cập, để đặng giữ cái trung đạo tự nhiên chơn như định, chớ không phải tu là để tìm thái quá bất cập, hai bên lề. Bởi cái sống, biết, linh là ai cũng đang sẵn có, mà vì bị thái quá bất cập, tà pháp ngăn che ám muội. Hiểu như thế tức là cũng như khôngtu tập luyện rèn chi, miễn đừng thái quá bất cập vọng loạn, và không nên chấp có hơi thở tưởng đếm chi số tức quan.

Vậy thì theo đây, chúng ta nên cần phải hiểu ba món: tinh, khí và thần trong xác thân này, để mà ngừa bịnh.

Tinh là trong, là đặc, là kết gồm lại, là chất có ánh sáng như sao. Chất tinh ba là chất kết lọc chót hết của tứ đại. Tinh ba là chất sanh ra bởi xương, xương sanh ra bởi thịt, thịt sanh ra bởi da. Cũng gọi là chất tồn còn sau chót, sau khi da thịt xương đã tiêu hoại; cũng như hột là sự un đúc, rút thân của tất cả chất trong cây lá nhánh hoa trái. Cả thảy đều un đúc cho nó. Chỉ còn có nó, nó là ngọc, là hột giống, là con của mỗi vật. Trong một cái hột là có chứa tất cả chất của cây, nhánh lá, hoa trái, muôn triệu trong đó, rút thâu vào đó, ở ẩn trong đó, và sẽ xuất lộ ra ngoài, chất tinh ba của người cũng y như thế. Một hột tinh ba là một thân hình của người chủ. Của người nam là giống nam, của người nữ là giống nữ, nó là hình thức của người chủ. Thế nên bọc thai bào trống lổng bên trong, khi có một nhểu tinh nam chen lọt vào, hay tinh nữ chen lọt vào là sẽ được nuôi dưỡng, nảy nở sanh con, hoặc nam, hay nữ giống y người đó. Và nếu khi hai thứ tinh pha trộn vào trong, là đứa con ấy sẽ giống cả vừa cha vừa mẹ. Lại cũng có lắm kẻ nữ nhơn tinh nghịch, mặc dầu không gần với ai người nam, nhưng nếu vì quá vọng động dục tâm, tinh chứa trong thận chảy ra, lại làm cho trống cửa bọc thai, lọt vào, là cũng sẽ sanh ra được một đứa con giống mẹ như hệt. Như thế nên gọi tinh là hột giống, là chất điển của ấm do nóng lạnh dung hòa. Tinh có hai tánh: thủy và hỏa. Khi thương thì thủy dậy tràn ra, lúc ghét thì hỏa dậy phừng túa, cho nên phép dưỡng tinh là tập tâm bình đẳng ôn hòa không cho thương và ghét xúi dục, làm tổn hại. Tinh là chất điển, cốt yếu của trong thân, với người chết lạnh nó chảy ra, nếu rút hơi vào lâu sau người ta rọi đèn cũng còn thấy rõ hình người. Với xác chết để trong hòm, người ta phải đốt đèn để ngay phía dưới, đừng cho hơi nó nhập thâu xuống đất, gọi là khử sao tinh. Vì nếu hơi tinh rút xuống đất, ít lâu sau khi nóng bực nó sẽ bốc cháy lòe lên như sao, và bay theo luồng gió, lộn cuốn trong nhà, ai đụng chạm là trúng điện độc, mà người ta thường gọi là hồn thư, hay đèn ma. Nơi những mả mới chôn, xác chết còn đọng chứa tinh, hay phát cháy lên theo hơi nóng như khí đá, ánh sáng lập lòe, giây phút rồi tan mất.

Tinh là ngọc xá lợi do những bậc tu thiền định lâu năm. Nước tinh ba lỏng trắng đục sẽ do sức ấm dung hòa của trung đạo, hấp ấp nấu làm cho đặc lại, trong suốt có viên tròn, theo những ống xương có từng hột lớn nhỏ, cứng mà dẻo, đốt không cháy, gặp hơi nóng hay nháng ánh sáng, kêu là ngọc xá lợi, ngọc người. Mỗi hột là như chứa đủ cơ thể của một người ẩn kín trong đó, sống biết linh sẵn có đủ nhiệm mầu. Xá-lợi lớn nhỏ và có đủ hình sắc phai lợt là tùy theo công đức của người tu lâu mau nhiều ít. Người tu mà có được xá lợi là quí lắm, chứng tỏ rằng người đã nhập định đắc thần thông, và do âm đức tu nhiều đời kiếp, nên kiếp này mới đặng. Cho nên người ta vì quí trọng đạo đức, pháp lý sự tu, và quý trọng sự tu kết quả của một người, mà đem ra trước mắt công chúng để tượng trưng và hoan hô tinh thần, cổ võ mối đạo.

Khi xưa đức Phật phóng hào quang cũng là do điện lực của tinh ba xá lợi trong xương thận; bởi Ngài đã có sẵn bên trong nên khi nhập định, dùng ý tưởng, chuyển hơi lửa đốt nung, là nó sẽ túa ra ánh sáng, hoặc từ thận lên theo xương sống, đến chót đầu, hoặc dẫn lại tam tinh, hay tay chưn cho xuất hiện. Đó là cái kết quả bên ngoài, để chứng rõ cái đạo tâm bên trong, là tâm chơn chánh trong sạch báu quý, chớ hiểu ra thì các phép linh ấy ma quỷ kẻ ác gian luyện tập cũng có được.

Tinh do nhờ ấm hấp nấu bốc lên hơi, gọi là khí; khí hòa là chẳng nói hơn thua mừng và giận. Khí ấy sanh thần, thần là tâm đứng vững một mực, bằng thẳng trung ngay chính giữa, không phải quấy, thiện ác, vui và buồn hai bên. Thần là giữa hai mắt thấy, tự nhiên chơn như đại định, trung đạo chánh giác, không xiên xẹo thiên vị. Khí là giữa nơi hai lỗ mũi điều hòa không mau chậm, tinh là ở nơi giữa hai lỗ tai, không nghe lời đẹp tiếng thô.

Tinh sanh khí, khí sanh thần, thần coi sóc nuôi lại khí, khí giữ gìn nuôi lại tinh, từ dưới sanh lên, từ trên nuôi xuống, cũng như chân giúp mình, mình giúp đầu, đầu giữ mình, mình giữ lại chân, ba phần sống cho nhau như một cái cây liền lạc. Lại cũng như một cái vòng tròn, tinh sanh khí, khí sanh thần, thần sanh tinh trở lại gọi là huờn nguyên. Khác nào giới nuôi định, định nuôi huệ, huệ nuôi trở lại giới, kêu là chơn như tròn. Ấy như một cái thân hình là có ba chặng chưn, mình, đầu hiệp lại. Vậy thì giữ tinh là trì giới, không dâm dục làm đầu; điều hòa khínhập định, không nói bậy làm gốc; dưỡng thần là không tưởng loạn làm nên. Thần dòm ngó lại cho tinh, tinh sanh khí giúp thần nên gọi là tinh thần, vì nếu thiếu khí hơi, thâu rút lửa tim xuống là hỏa tâm vượng vọng bốc cháy lên, đốt rượt thần phải chạy loạn. Vậy nên nhờ khí mà thần được chơn chánh hiệp một, duy nhứt ngó ngay sanh mắt giữa, được định yên làm chủ trở lại tinh khíxuất hiện linh thông kêu gọi là thần linh hay thiên linh (Tàu nói trại giọng là thiêng liêng). Nhờ thần làm chủ mạnh mẽ nên mới giữ được tinh, thì tinh mới sanh khí, khí giúp lại thần. Nhưng rồi sau rốt một ngày kia, tinh khí theo thân hoại mất, thì thần đã linh thông sống biết đầy đủ, giác chơn tròn định, ấy tức gọi là đắc đạo, kết quả, nên hột giống còn mãi, sống hoài trường sanh bất diệt, cũng kêu là Phật. Lúc ấy còn thân mất thân cũng được.

Ba phép tinh khí thần hay giới định huệ, nơi người mà biết giữ gìn đều đủ, tức là lục căn thanh tịnh, thất tình đoạn phủi, tam độc tiêu trừ, ngũ uẩn khỏi qua, tứ tướng dứt sạch, nhơn ngã không còn... nên trí huệ thần thông, quả linh đạo lý, giác ngộ chơn như đặng đều đủ.

Cũng vì thế mà người tu ai ai cũng quý trọng sự nhập định dưỡng khí, là phép số tức quan. Vì có cái giữa mới đến được cái trên.

Thần là không không, cái trên; khí giữa không và có; tinh là có có, cái dưới; kêu gọi tinh thần là dưới trên, từ dưới lên trên, từ hữu vi đến vô vi là xuôi thuận, mà nấc thang giữa ấy tức là khí trung đạo, điều hòa, số tức quan vậy.

Ai ai cũng có sẵn số tức quan hết.

(Trích: Bộ sách Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33414)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37725)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21131)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17877)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63649)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17385)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16372)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14486)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22452)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56971)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13837)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29011)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33315)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38382)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13906)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14617)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14302)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12638)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14815)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19199)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13808)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30383)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11828)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30650)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29391)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30569)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31197)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37080)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32224)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23649)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12214)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14231)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14086)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33962)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27711)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12448)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28629)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29347)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12385)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29211)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27990)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25659)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26025)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22257)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33124)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31798)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39575)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22412)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34463)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27338)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28350)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35250)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31924)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant