Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

28 Tháng Tư 201607:05(Xem: 10565)
Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm (5)

Bài Thứ 5 
GÓP NHẶT NHỮNG VIÊN NGỌC CHÁNH NIỆM 

Quán Như Phạm Văn Minh

Góp Nhặt Những Viên Ngọc Chánh Niệm


FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng?

Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm. Các trung tâm nghiên cứu khác được thành lập rãi rác ở những nơi khác như Penn Program for Mindfulness ở Philadelphia. Phong trào phổ biến rộng rãi cho nên có các khóa huấn luyện cũng lan tràn Online. Các người tốt nghiệp được phát chứng chỉ Certified MBSR Teachers trước khi được nhận vào các bệnh xá hay bệnh viện trên toàn thế giới. Các kho dữ liệu Y tế như EBSCO, CINAHL, PSYCLINE và MEDI-LINE đều công nhận MBSR là một chương trình có chất lượng cao và hiệu quả đồng nhất trong việc chữa trị căng thẳnglo âu. Viện Y Tế Quốc Gia (Mỹ) đã tài trợ cho MBSR để tiếp tục nghiên cứu. Dù số tài trợ còn khiêm tốn nhưng đừng quên là 30 năm trước (1980) chưa ai (ở Mỹ) biết chánh niệm là gì!

Nhưng nghịch lý là mỗi khi thực hành chánh niệm quý vị là người đóng vai chánh, sống ‘đời mình’ không ai có thể thay thế quý vị được. Cho nên quý vị là người ‘Thầy’ giỏi nhất cho mình. Các nhà sư Tây Tạng dù đã bao năm tu tập trong các hang thâm cùng cốc khi được yêu cầu ‘dạy’ Chánh Niệm bao giờ cũng nhũn nhặn nói: “Tôi không biết gì cả! Lẽ ra quý vị nên học với người khác”. Đây không phải là lời khiêm nhượng giả vờ, nhưng các Đại Sư biết rằng mỗi lần thực niệm chánh niệm trong khoảnh khắc này là bắt đầu một cuộc hành trình ‘mới’, không giống hành trình trong khoảnh khắc trước. Các Thiền sư thường tự ví mình như một người bán thức uống gần bờ sông! Cần mà không cần!

Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống. Lúc ban đầu quý vị cần một người và các văn bản hướng dẫn cũng để sử dụng như bảng chỉ đường trí tuệ, để quý vị làm quen với kỹ thuật thực tập và có những tiến bộ sơ khởi. Giống như một đứa trẻ tập đi, phải té lên té xuống nhiều lần mới có ‘kinh nghiệm’ giữ thăng bằng. No pain no gain, nhưng chánh niệm không phải chỉ có pain. Khi quý vị đến mức hỷ xả, có những niềm vui xuất hiện, nhất là khi đạt được kết quả tích cực về thân tâm.

Nói một cách chính xác, không có người nào được gọi là Thiền Sư, ai cũng là thiền sinh, hành giả ‘sơ tâm’. Nhớ lời Phật thách thức đệ tử là, trước khi chấp nhận lời Phật dạy, phải tự tìm hiểu xem lời Phật có phải là vàng ròng hay không, rồi hãy áp dụng. Hay nhớ tới kinh Kalama chỉ chấp nhận giáo lý vì thấy giáo lý đó phục vụ được mục tiêu cứu khổ, không phải chỉ vì đó là giáo lý của Đức Thế Tôn truyền dạy. Lòng tin mù quáng không có chỗ đứng trong Phật giáo! Vì thế trong các bài tập chỉ dẫn các nhà khoa học bao giờ cũng nhấn mạnh tới thái độ uyển chuyển, ứng biến của ‘học viên’.

Các thiền sư dòng Tào Động thì ‘tuyển sinh’ khó hơn. Các hành giả thường là người Tây phương phải qua tận Nhật ‘hành hương’ và trình diện xem Sư phụ có chịu chấp nhận mình làm đệ tử hay không. Sau đó được giáo huấn trong một thời gian trung bình vài năm, khi Sư Phụ cho phép đệ tử trình kiến giải trong các cuộc tham vấn (dokusan) xem đệ tử có thực sự giác ngộ chưa, để tránh trường hợp đệ tử ‘quá’ tự tin, nghĩ là mình đã ‘giác ngộ’ (theo nghĩa satori)

Khi được chấp nhận đệ tử sẽ được ban danh hiệu Roshi và trên nguyên tắc có thể làm giáo thọ ở bất cứ nơi nào. Theo tôi được biết Thầy Phụng Sơnngười Việt duy nhất từ trước đến nay được phong danh hiệu Roshi. Có lẽ thầy Phụng Sơn nên kể lại quá trình Tầm Sư Học Đạo của mình cho quần chúng Phật tử biết.

FAQ: Có thầy, có văn bản hướng dẫn thực tập, nhưng liệu tôi ‘có thể’ thực hành Chánh Niệm được không?

Đây là một câu hỏi thông thường nhất. Người hỏi chưa đủ tự tin và còn hiểu lầm về chánh niệm. Ai có thân thể khỏe mạnh và óc não sáng suốt đều có thể thực hành chánh niệm, dĩ nhiên thực hành chánh niệm không phải dễ, nhưng nếu được hướng dẫn và với tinh tấnkiên trì, ai cũng có thể thực hành được!

Nghĩ mình không thể thực hành Chánh Niệm cũng giống như nghĩ mình không thể thở (thực ra cuống não tự động thở cho quý vị), hay không thể chú ý hay thư giãn. Khi đủ một số điều kiện hay biết cách vun xới, ai cũng có thể chú ý.

Thường người ta hay lẫn lộn giữa chánh niệm và thư giãn, hoặc nghĩ thực hành chánh niệm để đạt tới một tình trạng hay cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào đó. Nếu họ thực hành chánh niệm một vài lần, họ cảm thấy không đi đến đâu, và không đạt được tình trạng mong muốn, họ nghĩ họ “không thể” thực hành chánh niệm được. Nhưng chánh niệm không nhằm mục đích nào hết, cũng không làm quý vị có cảm tưởng ‘đặc biệt’ nào. Nó cũng không có mục đích làm quý vị an tĩnh, mặc dù khi thực hành tới mức chín mùi, quý vị có thể có an lạcvui sướng của trạng thái “định” (Samadhi). Chánh niệm cũng không có mục đích làm Tâm rỗng không (vì tâm viên, ý mã, Tề Thiên không lúc nào chịu ngồi yên, lúc nào cũng nhảy nhót , khọt khẹt) quý vị càng đàn áp thì Tề Thiên càng ‘làm tới’. Khi niệm chú Chánh Niệm, Tề Thiên nhức đầu mới chịu thôi. Không tin quý vị có thể hỏi Đường Tăng! Chánh niệm là chú ý theo dõiđể Tâm xuất hiện như là just as it is (như nó là), không can thiệp hay áp đặt trên bất cứ một trãi niệm nào. Nhớ từ ngữ Let Be (giữ nguyên) và Let Go (buông xả), thái độ vô cầu như đã đề cập ở trên. Chánh niệm không nhắm tới đạt đến một chỗ nào như quý vị mong ước mà chỉ giúp quý vị biết mình đang ở đâu. Không hiểu điều này, quý vị sẽ nghĩ mình không thể thực hành chánh niệm! Thực hành chánh niệm dĩ nhiên đòi hỏi cố gắngkiên nhẫn, vì thấy mình không “đi tới đâu”, quý vị dễ bỏ cuộc. Vậy thì thay vì nói tôi “không thể” thực hành chánh niệm, quý vị nên nói là tôi không đủ ý chí kiên trì để thực tập! Khi quý vị cảm thấy “mất tự tin” quý vị nên ngồi xuống hay nằm, hay đi, hay ăn và lần này buông bỏ mong ước ‘đạt tới đâu’của mình! (Jon Kabat Zinn, Wherever You Go, Where you are, P 34).

FAQ: Chánh niệm khác với vô tác, vô vi ở chỗ nào?

Vô tác hay vô vi hoàn toàn khác với “không làm gì cả”. Vô vi nhưng vô bất vi. Vì chuyển qua Sensing Mind khi thực hành chánh niệm, nên quý vị dùng trực quan để mà sống. Khi giác quan còn lành mạnh, thì quý vị “thấy”, nghe thì quý vị thấy và nghe mà không cần cố gắng, ăn thì quý vị cảm thấy hương vị thức ăn, ngữi thì ‘thấy’ mùi thơm, đụng chạm thì thấy cảm giác đụng chạm (xúc), không cần một nổ lực nào miễn là quý vị duy trì chánh niệm. Vô vi có thể dịch là ‘Effortless Effort’ ‘cố gắng mà không cần cố gắng’, kiểu nói nghịch lý của Zen (như Vô Môn Quan, cánh cửa không cửa!). Chỉ có ý thứcý định là quan trọng ở đây. Trong lúc thực tập Formal Practice, quý vị cần ý thức về những gì mình đang làm. Khi quý vị chuyển được chánh niệm qua những sinh hoạt đời thường, lúc đó ăn thì quý vị biết mình đang ăn, khi đi thì biết mình đang đi, khi nằm ngồi, tắm, đọc báo, nói chuyện với người khác.. vân vân, cũng vậy. Quý vị không cần có một lịch trình gì ngoài việc ‘tỉnh thức’ trong khoảnh khắc hiện tại. Ngồi xuống, đừng làm gì cả, chỉ cần an trú trong chánh niệm, quan sát trãi niệm đang hé lộ ra trong Tâm just as it is.

FAQ: Định và Niệm khác nhau ra sao?

Định là một phần nền tảng quan trọng của Chánh Niệm. Không có Định, tấm gương soi giống như mặt nước nhấp nhô và không phản ảnh trung thực thế giới bên trong cũng như bên ngoài. Quý vị có thể thực tập Định và Niệm cùng một lúc hay riêng rẽ. Thực tập định bằng cách chú ý vào một đối tượng duy nhất, như hơi thở, một hình tượng tôn giáo hay niệm một câu thần chú vân vân… Tiếng Phạn Định là Samadhi (onepointedness). Khi tâm đi lạc quý vị chỉ nhẹ nhàng kéo Tâm trở lại hơi thở trong khoảnh khắc này, không phải hơi thở trong khoảnh khắc trước hay sau. Nếu kiên trì quý vị có thể duy trì chú ý trong một thời gian lâu hơn và quý vị có thể đạt tâm cảnh an lành, không có gì có thể quấy phá được. Nhưng cẩn thận, khi đạt tới mức Định, cảm giác an lạc (hỷ, xả) có thể tràn ngập Tâm và quyến rũ quý vị dùng đó làm nơi trú ẩn khỏi những khó khăn, bận rộn của đời thường, và có thể khiến quý vị nghĩ lầm là quý vị đã đạt tới ‘kết quả nào đó’. Quyến luyến với Định cũng giống như bất cứ một tham chấp nào khác, quý vị ôm chặt không chịu bỏ ra và sống trong tình trạng vô minh (delusion). Trong tình trạng Định, quý vị có thể quên cả thế giới bên ngoài, không nghe cả tiếng cửa đóng hay mở, và thế giới bên trong cũng có thể biến mất: ý tưởng, cảm giác, tình cảm ít xuất hiện. Sự an lạc này rất quyến rũ và làm quý vị “say” và quên đi mục đích Chánh niệmtỉnh thức, không phải để say, dù là say An Lạc! Tuy nhiên Định thiếu Niệm không thể đưa đến Tuệ (Giới, Định, Tuệ). An lạc của Định có thể làm quý vị thỏa mãn nhưng thiếu óc tò mò, điều tra, rộng mở của Chánh niệm.

FAQ: Nền tảng Đạo đức của Chánh niệm: Tâm và não là một (Mind cũng là Heart: Mindfulness cũng là Heartfulness)

Phần lớn trong các ngôn ngữ Á Châu, Mind cũng là Heart. Tâm cũng là Ý. Trong tác phẩm Nẻo về Của Ý , Nhất Hạnh có dùng một cụm từ rất thú vị “các cô gái ở Việt Nam được cha mẹ dặn dò là phải có ‘ý về tứ’, tcác các cô mới ‘đẹp trọn vẹn’! Hiện nay ai cũng có thể thực tập Chánh Niệm, bất kể nam hay nữ! Nhắc lại chuyện này để các cô các bà có thêm động cơ thực tập!

Nguyên tắc đạo đức căn bản của Đạo Phật là không làm hại bất cứ một chúng sinh nào, hữu tình hay vô tình. Dù trên thực tế không ai có thể hoàn toàn giữ được điều này, nhưng ít nhất Phật tử chúng ta lúc nào cũng trung thành với lý tưởng Ahimsa (giới sát), cố gắng không gây đau khổ cho người khác. Thực hành chánh niệm không phải là một trào lưu thời thượng của những người không có chuyện gì làm, chỉ ngồi im lặng ‘ngó rốn’,  như một số lời chỉ trích! Huấn luyện Tâm cũng là một cách vun xới một số tình cảm căn bản trong đạo đức Phật giáo như Từ bi, Độ lượng, Buông xả, Không tham chấp…Trước hết là quý vị áp dụng những tình cảm này cho chính mình. Không phải là chúng ta ích kỷ nhưng nếu không từ bi, độ lượng với chính mình là sao quý vị có thể từ bi, độ lượng với người khác? Quý vị phải nói ngược lại “thương thân như thể thương người” mới đúng!! Nhiều lúc quý vị đối xử nghiêm khắc với chính mình, lúc đó nên nhớ Ahimsa. Và buông xả tình cảm đó. Letting it go!

FAQ: Bảy thái độ cần thiết khi thực hành Chánh Niệm

1-  Thái độ căn bản: Không phán đoán (Let Be) Buông xả (Let go) 

Thái độ căn bản nhất là Let Be và Let Go. Let Be, chúng tôi dịch là bàng quan, không phán đoán hay can thiệp. Let Go là buông xả, như bàn tay mở ra để buông bỏ những gì đang nắm. Không phải bàn tay đang nắm mà Tâm quý vị đang nắm, nên còn chặt hơn cả bàn tay. Let Go là không bám chặt bất cứ điều gì, dù đó là một ý tưởng, một vật hay điều gì mà mình thích hay ghét bỏ, một quan điểm, niềm tin, ngay cả chính tín ngưỡng. Đây là một hành động có ý thức buông xả để chấp nhận những gì đang hé lộ chân nguyên (as it is) trong khoảnh khắc hiện tại. Buông xả nghĩa là không bám víu những gì mà quý vị yêu thích hay ghét bỏ. Chúng ta mắc kẹt trong tình cảm thương, ghét, thích & không thích. Chúng ta mang một cặp kính mầu, phân biệt những gì tốt hay xấu cho mình và theo thói quen chúng ta trở thành tù nhân của tình cảm thương ghét này. Nếu chúng giống với niềm tin hay triết lý của mình, thì chúng ta thích. Nếu khác với những gì mình nghĩ, chúng ta ghét. Những tình cảm này chế ngự tâm như là một gánh nặng, giống như quý vị đang mang cát đá trong đầu. Đến lúc quý vị phải bỏ gánh nặng này xuống cho nhẹ! Tưởng tượng Tâm của chúng ta nhẹ biết bao nhiêu khi buông xả được gánh nặng này! Buông bỏ những phán đoán này để trãi nghiệm just as it is tự hé lộ cho chúng ta thấy trong khoảnh khắc hiện tại. An lànhgiải thoát, phải không quý vị?

2 - Kiên nhẫn: Lúc nào chúng ta cũng nôn nóng muốn đến một nơi nào đó, muốn đạt điều gì đó cho mình, sống một khoảng đời khác hạnh phúc hơn ‘bây giờ’. Khi trẻ thì muốn học hành thành tài và lập sự nghiệp, tiết kiệm tiền cho thật nhiều, mới thấy hạnh phúc. Nếu gia đình không hạnh phúc thì đợi khi ly dị xong. Khi sinh con cái thì đợi chúng trưởng thành, ra ở riêng. Đồng cỏ bên kia lúc nào cũng xanh hơn.Tương lai mơ tưởng mới là hạnh phúc hơn là hoàn cảnh hiện tại. Hiện tại không bao giờ làm quý vị thỏa mãn. Giống như một threadmill, cứ chạy mà không có chỗ dừng! Quý vị không còn nhận biết là quý vị đang ở đâu. Quý vị quên là cái gì        cũng có ‘chu kỳ’ riêng, mùa xuân cây cỏ xanh tươi, hoa trái không thể nở trái mùa. Khi chúng ta nói khoảnh khắc hiện tại chúng ta muốn nói bây giờ, nghĩa là ngoài thời gian vật lý (Timeless). Thường chúng ta chỉ chú ý nhận biết hạnh phúc hay đau khổ hiện tại trong những hoàn cảnh hiếm hoi nhất (blue moon) như khi chinh phục được người tình hay khi bị phụ bạc, những lúc ecstasy hay tragedy, thường chúng ta để khoảnh khắc hiện tại qua đi trong thất niệm! Nếu quý vị duy trì được chánh niệm quý vị bước ra khỏi thời gian vật lý và sống trong chánh niệm, có nghĩa là quý vị có thêm nhiều thời gian để sống và sống trọn vẹn.

3-  Sơ tâm thiền (Beginners’s Mind) Thấy mọi sự như mới thấy lần đầu trong từng khoảnh khắc hiện tại. Khi mới gặp người tình, quý vị bị xúc động, để ý từng sợi tóc bay trong gió (có sợi tóc nào bay), nụ cười, lời ăn, tiếng nói. Nhưng khi sống chung trong một thời gian, quý vị nghĩ là mình đã biết kỹ người tình, nên không còn tò mò quan sát như lúc mới quen. Thái độ thấy một lầnthấy hết, sau đó dùng ký ức để ‘thấy’ người tình, không còn nhìn người này hiện giờ như lúc đầu tiên nữa! Sơ tâm Thiền rất cần thiết khi quý vị thực tập vì quý vị quan sát hơi thở vào hay hơi thở ra trong khoảnh khắc này, không phải là hơi thở trước hay hơi thở sau đó. Quý vị có thể cảm nhận khác nhau về từng hơi thở, không hơi thở nào giống hơi thở nào. Nhờ sơ tâm thiền quý vị có thể theo dõi hơi thở dễ dàng hơn.

4-  Vô Cầu (Non Striving) Khi học một kỹ năng trong đời như lái xe chẳng hạn, chúng ta mong muốn tới một lúc nào đó chúng ta có thể sử dụng kỷ năng này một cách tự động mà không cần chú tâm nữa. Tai nạn xe cộ xảy ra nhiều vì khi lái xe chúng ta quên mình đang lái xe, tâm trí để đâu đâu. Nên không có gì đáng ngạc nhiên khi tai nạn giao thông chết người vẫn tiếp tục xảy ra, dù luật lệ thắt chặt và cảnh sát được tăng cường! Khi thực hành chánh niệm, chúng ta thường mong muốn đạt tới một tình trạng nào đó, dù chỉ là một cảm giác khoan khoái, những mong muốn này rất ‘hợp lý’, hay nhiều khi mong muốn được áp suất máu hạ, hệ thống miển nhiễm tăng, trong một thời gian ngắn...Khi mong ước như thế, chánh niệm dễ bị mất. Tề Thiên rất nhanh nhẹn và thông minh. Lo âu này sẽ khiến chánh niệm biến mất và lạc qua thinking mind của Tề Thiên mà quý vị không để ý. Thực hành chánh niệm chỉ có mục đíchtỉnh thức, những kết quả khác chỉ tự nhiên đến. Công việc duy nhất của quý vị cần làmcảm nhận và theo dõi hơi thở! Giản dị nhưng không dễ dàng. Ngồi theo dõi hơi thở quý vị sẽ cảm nhận được những gì chúng tôi đang nói!

5-  Chấp nhận thực trạng (Acceptance)

Chúng ta nên xem bất cứ một ý nghĩ nào xuất hiện trong Tâm như những tâm hành khác, hiện đó, biến đó. Vì chúng ta mang cặp kính mầu, những phán đoán của chúng ta thường không chính xác. Thường chúng là những phản ứng thiếu nền tảng, méo mó do thiên kiến hay bị điều kiện hóa trong quá khứ. Nếu chúng ta bàng quan, không phán đoán, chỉ quan sát và chấp nhận những trãi nghiệm khi chúng xuất hiện, và tùy hoàn cảnh, chúng ta sẽ chọn lựa một phản ứng ý thức. Điều này không có nghĩa là chúng ta không phản ứng với những hành động sai trái hay vô đạo của người khác, mà chỉ có nghĩa là bất cứ một chọn lựa hay phản ứng nào cũng là chọn lựa ý thức dưới ánh sáng của chánh niệm. Nếu chúng ta phủ nhận thực trạng, chúng ta không biết chúng ta đang đứng chỗ nào để chọn lựa. Nếu chúng ta than thân trách phận, oán trời oán đất, chỉ làm tăng nỗi khổ niềm đau vì mũi tên thứ hai tự bắn. Giả sử chúng ta bị chẩn bệnh là mắc bệnh ung thư, chúng ta chấp nhận thực trạng này vì nếu tìm cách phủ nhận, chúng ta sẽ không chọn lựa một giải pháp thích ứng để đối phó, như đi chẩn đoán để xác nhận lại và bước tớitìm cách chữa trị. Khi chấp nhận hiện trạng, bệnh ung thư không tự nhiên thoái hóa hay biến mất, nhưng chúng ta có cái nhìn sáng suốt hơn những chuyện gì cần làm tiếp theo!

6-  Trust: (Tin tưởng)    

Tin tưởng phản ảnh cho lòng tự tin, khi thực hành chánh niệm: chúng ta phải tự tin là mình có thể quan sát, tâm có thể mở rộng và chú ý quán sát những gì đang hé lộ như chúng là just as it is trong khoảnh khắc này. Chỉ có chúng ta mới có thể sống đời mình, và những văn bản hay người hướng dẫn chỉ là những phương tiện đưa chúng ta đến cửa, chúng ta phải quyết định vào cửa Thiền, không ai có thể thay thế mình được.

7-  Generosity:  (Độ lượng)

Độ lượng là một đức tính tốt cũng như kiên nhẫn, buông xả, không phán đoán, tin cậy, là nền tảng thực tập chánh niệm. Và người cần được đối xử độ lượng trước tiên là không ai khác hơn là quý vị. Tự chấp nhận mình là món quà tặng quý giá không điều kiện, làm tăng sinh lực sống, tăng lòng tự tin, tấm lòng thêm rộng mở.

Nhiều khi thấy lòng độ lượng của mình không được đền đáp, quý vị có thể miễn cưỡng không muốn thực hành, nhưng nên nhớ chính quý vị là người đầu tiên hưởng “kết quả”. Độ lượng là một cách nuôi dưỡng lòng từ bi, không phải là một cách để góp nhặt ‘phước báu’ như nhiều người nghĩ. Nếu có phước báu chỉ là bonus thêm vào đó, không phải là động cơ chính của ‘bố thí’. Quý vị cảm thấy vui vẻ hạnh phúc ‘lên tinh thần’ vì đã làm những điều tốt (feel good when doing good!)  không phải vì áp lực bên ngoài (hay bên trên), không có Nam tào Bắc đẩu nào cầm sổ ghi chép những việc làm tốt (hay xấu) của quý vị, một hình thức cho mà không cần đền đáp, hành động một cách vô cầu. Đó chỉ là một ý định muốn chia xẻ với người khác tài nguyên hiện có của vũ trụ

Quán Như Phạm Văn Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33416)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54522)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63654)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17390)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16866)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13840)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33319)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38388)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13908)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14304)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12641)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14816)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13809)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30385)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11828)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29393)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30574)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31198)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37085)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32228)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23654)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12216)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14086)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33968)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12453)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29355)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12386)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29215)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27993)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25660)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26029)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22261)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33125)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31799)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39578)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22419)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34468)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27340)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28354)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant