Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa

01 Tháng Năm 201907:17(Xem: 3330)
Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa
Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng
VớiTrạng Thái Toàn Cầu Hóa

Thierry Janssen
Hoàng Phong (Pháp) lược dịch

Thiền Định Phương Thuốc Hữu Hiệu Giúp Cơ Thể Thích Ứng Với Trạng Thái Toàn Cầu Hóa



Lời người dịch:

Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể. Một nhân vật nêu lên trong bài viết nầy cho biết chữ STRESS không có trong ngôn ngữ Tây tạng, người dịch cũng nghĩ rằng không có trong ngôn ngữ Việt Nam. Tuy thế, triệu chứng khủng khoảng của trạng thái căng thẳng thần kinh xảy ra thường xuyên chung quanh ta, nhưng vì ngôn ngữ không đủ khả năng thích ứng kịp thời với hậu quả củng những biến đổi trong xã hội ngày nay để nhanh chóng sáng chế ra những ngôn từ thích nghi dùng mô tả những triệu chứng ấy mà thôi. Viện Tâm Linh và sự sống (Mind anh Life Institute) tổ chức thường xuyên những cuộc gặp gỡ giữa các nhà khoa học nổi tiếng cùng với Đức ĐẠT LAI LẠT MA, cũng như với các nhà sư danh tiếng khác trên thế giới để trao đổi những hiểu biết giữa khoa học và Phật giáo. Phúc trình và kết quả những lần họp như thế đều được xuất bản thành sách. Dưới đây là nội dung hội nghị được tổ chức vào cuối năm 2005 và đã được bác sĩ THIERRY JANSSEN tóm lược. Bác sĩ Thierry Janssen vừa là một bác sĩ giải phẩu vừa là một bác sĩ điều trị tâm thần nổi tiếng, ông đã từng xuất bản nhiều sách về tâm linh. Tôi xin lược dịch bài viết của ông dưới đây.

Nhiều khoa học gia lừng danh thế giới họp nhau để gặp gỡ Đức ĐẠT LAI ĐẠT MA và một số các nhân vật khác về tâm linh trong ba ngày từ ngày 8 đến ngày ngày 10 tháng 11 năm 2005. Hội nghị do VIỆN TÂM LINH và SỰ SỐNG (Mind anh Life Institute) tổ chức tại WASHINGTON, chủ đề chính thức là “SỰ MỀM DẼO CỦA NÃO BỘ”. Hội nghị nầy được tổ chức vài ngày trước khi khai mạc Hội nghị thường niên của Hiệp Hội Thần Kinh Học, và chính trong dịp đại hội của Hiệp Hội Thần Kinh Học, Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã được mời đọc điển văn khai mạc.

SỰ HIỆP LỰC GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Viện Tâm Linh và Sự Sống có thể là một tấm gương tiêu biểu nhất cho sự hợp tác và hỗ trợ giữa những ngành học rất khác nhau và sự hiểu biết đa dạng. Với chủ đích thiết lập đối thoại giữa khoa học và Phật giáo, hai nền văn hóa đó sẽ ra sức, tùy theo những phương pháp cá biệt của mỗi ngành, để tìm hiểu bản chất của thực tại, nhằm vào mục tiêu cải thiện hoàn cảnh con người.

Dự án trên đây là một dự án khá tham vọng. Vì thực tế, không có gì khó hơn là thiết lập đối thoại mang tính cách xây dựng giữa hai nền văn hóa khác nhau. Nhưng thực tế cho thấy chỉ hai năm sau đó, cuộc gặp gỡ đầu tiên được tổ chức tại DHARAMSALA (Ấn Độ) nơi tư thất của nhà lãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng là ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA và những nhà khoa học. Tiếp theo đó, khoảng một chục cuộc họp nhỏ hơn đã được tổ chức đều đặn cho đến năm 2003, khi trường đại học danh tiếng là MASSACHUSETTS INSTITUTE OF TECHNOLOGY (MIT) mời ông ENGEL đứng ra tổ chức một hội nghị ở BOSTON với số cử tọa lớn hơn nữa. Vào lúc ấy thì ông FRANCISCO VERALA đã qua đời vào tháng 5 năm 2001. [Ghi chú thêm của người dịch : Đức Đạt Lai Lạt Ma được thông báo ông Francisco Verala ngã bệnh và Ngài đã thấy trước sự ra đi của ông nầy, Ngài liền cho thu băng video hình ảnh và những lời dặn dò của Ngài để cấp tốc gởi sang Paris cho ông Francisco Verala nghe trước khi ông từ trần]. Nếu ông còn sống có lẽ ông sẽ phải hân hoan lắm khi thấy kết quả đối thoại do Viện Tâm Linh và Sự Sống đem đến đang thu hút sự quan tâm cao độ của tất cả cộng đồng khoa học.

Cách hai mươi năm trước đây, mấy ai có thể ngờ được lần hội nghị thứ mười ba của Viện Tâm Linh và Sự Sống, nêu lên những đối thoại giữa khoa học và tâm linh lại được hai thể chế uy tín như Đại Học JOHNS HOPSKIN ở Baltimore và Đại học GEORGETOWN ở Washington đứng ra hổ trợ ? Trong buổi khai mạc, ông EDWARD MILLER khoa trưởng Phân Khoa Y học JOHNS HOPSKIN đã đứng lên phát biểu như sau: “Sứ mạng của chúng ta là đề cập đến những lãnh vực chưa được khám phátìm hiểu những gì chưa có thể hiểu nỗi. Chúng ta nên đón nhận những thắc mắc mới để đem đến những giải đáp mới”. Chủ đề nêu lên trong lần họp nầy là cơ sở khoa học và hiệu quả trị liệu do Thiền Định mang đến. Đây là những thắc mắc mà các nhà nghiên cứu Tây phương đã nêu lên từ lâu. Nhưng từ khi ngành Thần kinh học thành công với một số tiến bộ mới nhất gần đây, người ta mới bắt đầu tìm thấy những câu giải đáp. Đó cũng là những gì mà hai nhà khoa học JON KABAT-ZINN và RICHARD DAVIDSON, phụ trách chương trình khoa học cho những buổi họp đang diễn ra, đã chứng minh qua suốt quá trình thực hiện lâu dài của họ.

MỘT PHƯƠNG CÁCH CHỐNG LẠI SỰ CĂNG THẲNG THẦN KINH (STRESS)

Từ những năm đầu thập niên 1970, nhà sinh học JON KABAT JINN đã chú tâm đến những phản ứng liên quan giữa thân xác và tâm thức. Sau đó, ông nhanh chóng n   hận thấy muốn nghiên cứu về sự tương tác giữa thân xác và tâm thức phải nhờ đến các kỹ thuật thiền định dựa vào khái niệm “tâm linh tỉnh thức” (pleine conscience – mindfulness). Đó là cách làm cho tâm thức an bình để buông xã thân xác. Loại bỏ mọi ý nghĩa phụ thuộctính cách tôn giáo, hoặc ngoại laitính cách Đông phương, ông đề nghị một danh từ hoàn toàn mang tính cách khoa học cho phương pháp do ông đề xướng : giảm căng thẳng thần kinh bằng tâm linh tỉnh thức (mindfulnes- based stress reduction : MBSR). Ông KABAT-ZINN giải thích :”Đây là cách đưa thiền định vào việc trị liệu của y khoa”. Phương cách nầy trước hết là giúp phát huy sự chú tâm vào hiện tại, từng giây phút một và từng giây phút một. Đó là phương cách thiền định đã được “đơn giản hóa” mà ông giảng dạy trong khoa bệnh lý chữa trị căng thẳng thần kinh (stress) tại Đại học MASSACHUSETTS. Chương trình giảng huấn của ông khá đơn giản : một buổi thiền định kéo dài hai tiếng rưỡi, mỗi tuần một lần trong tám tuần liền, thêm vào đó mỗi buổi một giờ thực tập tại nhà. Từ 25 năm nay đã có hơn mười lăm ngàn người nhờ vào cách trị liệu nầy để chữa trị các chứng bệnh rất đa dạng như các bệnh về tim mạch, sida, đau nhức kinh niên, xáo trộn tiêu hóa của bao tử và đường ruột, nhức đầu, áp huyết cao, mất ngủ, lo âu và hoảng sợ. Cách trị liệu bằng thiền định nầy, tức MBSR, đã đem đến nhiều kết quả mỹ mãn, vì thế đã được đem ra giảng dạy cho sinh viên tại 29 trường đại học y khoa trên khắp nước MỸ. Ông JON KABAT-ZINN đã giải thích với Đức Đạt Lai Lạt Ma như sau: “Điều nầy đã làm thay đổi mối tương quan giữa bác sĩ và bệnh nhân”. Nhiều nghiên cứu về y khoa càng ngày càng chứng minh mạnh mẻ hơn về lợi ích của phép trị liệu trên đây. Trong số những nghiên cứu được đem ra phúc trình trong buổi hội nghi về Tâm linh và Sự Sống, cho thấy trong trường hợp bệnh vảy nến (psoriasis) [Ghi chú thêm của người dịch : đây là bệnh mãn tính ngoài da, da bị những mảng đỏ và tróc ra thành những vảy trắng], cách trị liệu nầy bằng tia sáng cực tím sẽ mang đến nhiều hiệu quả rõ rệt hơn nếu phối hợp với phương pháp thiền định MBSR. Ông KABAT-ZINN kết luận rằng :”Thiền định, nhờ vào tác động của nó trên sự căng thẳng thần kinh, có thể giữ vai trò thiết yếu để ngăn ngừatrị liệu những bệnh tật liên hệ khác”. Quan điểm nầy cũng đã được nhiều người tán đồng, chẳng hạn như ông ROBERT SALPOLKY, giáo sư sinh học và thần kinh học của Đại học STANFORD (Hoa Kỳ), ông JOHNSHERIDAN, giáo sư miễn dịch học Đại học OHIO STATE UNIVERSITY (Hoa Kỳ) và bà ESTHER STEMBERG, Giám đốc Chương trình khảo cứu về miễn dịch học của Viện Y tế Quốc gia National Institute of Health (Hoa Kỳ), (tương đương với tổ chức INSERM của nước Pháp).

ĐEM CÁC NHÀ SƯ VÀO PHÒNG THÍ NGHIỆM

Ông RICHARD DAVIDSON là một người bạn từ lâu của ông Kabat-Zinn, nhưng ông lại dùng một lối nghiên cứu rốt ráo hơn là lối trị liệu theo kinh nghiệm của ông Kabat-Zinn. Chẳng qua vì ông là một giáo sư về tâm lý học và tâm thần học tại Viện Đại học WISCONSIN (Hoa Kỳ), đồng thời ông cũng là giám đốc một phòng thí nghiệm siêu tân tiến trang bị máy móc, ghi nhận tín hiệu điện lực và hình ảnh cộng hưởng từ tính (IRM), những trang bị nầy đã giúp ông ghi nhận trực tiếp những sinh hoạt của não bộ. Vì thế ông đã chứng minh cho thấy việc thiền định đều đặn làm gia tăng sức hoạt động thuộc vùng phía trước của não bộ  bên trái (phần nầy gọi là võ não, thuộc phần trán phía trước : cortex préfrontal), vùng não nầy liên hệ đến sự quản lý những xúc cảm tích cực, và do đó đã tạo ra sức đề kháng hiệu quả hơn về miễn dịch. Sau hai tháng, một cuộc thử nghiệm về chủng ngừa cho thấy chất kháng thể tiết ra trong cơ thể của những người thực thi thiền định đều đặn cao hơn hẳn đối với những người không thiền định. Trong một cuộc thí nghiệm khác, với sự tham dự của một nhà sư người Pháp là thầy MATHIEU RICARD [Ghi chú thêm của người người dịch : thầy M. Ricard là tiến sĩ khoa học, con của một triết gia, nhà văn, bình luận gia, thuộc Hàn lâm viện của Pháp, chính ông nầy đã chọn một tên khác là J.F. Revel vì không muốn cả hai cha con cùng nổi danh dưới một tên như nhau. Hai người có viết chung một quyển sách tựa đề là Một Nhà Sư Và Một Triết Gia Với Đạo Phật Ngày Nay. Thầy M. Ricard tu theo Phật giáo Tây Tạng và thông dịch viên tiếng pháp chính thức của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Mẹ và chị thầy cũng quy y Phật giáo], ông RICHARD DAVIDSON và ông ANTOINE LUTZ (một người Pháp, cựu đệ tử của ông Francisco Varela), cho thấy sự sinh hoạt não bộ của những người tu hành đã thực thi hơn mười ngàn giờ thiền định phát ra những làn sóng gamma nhiều hơn gấp bội so với những người không quen thiền định. Ong WOLF SINGER, giám đốc Viện Max Planck tại Frankfurt (Đức), cũng có tham dự trong hội nghị, giải thích những vai trò của những làn sóng gamma là làm gia tăng sức sự điều hànhphối hợp mọi sinh hoạt của não bộ, giúp nhiều khu vực của não đồng bộ hóa sự sinh hoạt, và đồng thời cũng nâng cao cấp bậc tâm linh của những người tu tập thiền định nầy đã có sẳn từ trước trong những cá thể trên đây và đã góp phần thúc đẩy họ đi xuất gia, nhưng tuyệt nhiên không phải là những gì mà họ đã đạt được bằng sức mạnh thiền định kiên trì sau khi đã xuất gia rồi. Để trả lời cho giả thuyết nầy, hai ông LUTZ và DAVIDSON đem ra so sánh những “thành quả” của những nhà sư đã thiền định suốt 40.000 giờ và những nhà sư chỉ thiền định được 10.000 giờ. Kết quả hết sức kỳ lạ : các nhà sư càng thiền định được nhiều giờ, số lượng làn sóng gamma của họ phát ra càng cao, và hiện tượng nầy không lệ thuộc gì với tuổi tác của họ. Ông WOLF SINGER kết luận như sau: “Vì thế hình như sự tập luyện tâm linh có thể đưa đến một dạng thể tinh thần cởi mở hơn và một thể dạng tâm thức trong sáng hơn”. Mặt khác, những hình ảnh do cộng hưởng từ tính ghi nhận sự vận hành của các chức năng của bộ óc cho thấy các nhà sư sành sõi trong việc thiền định, sức hoạt động của vỏ não trán thuộc phần bên trái, liên quan đến những xúc cảm tích cực, gia tăng một cách rõ rệt. Hơn nữa, khi các hình ảnh chụp các cảnh tượng đau đớn đưa cho các nhà sư đang được thí nghiệm xem, tức khắc những vùng não bộ tương ứng với những vận hành đau đớn đã được các nhà khoa học biết trước liền bị kích động. Sự kiện nầy xảy ra giống như thiền định đã kích thích các nhà sư chuyển sang hành động để cứu giúp những người đang bị đau đớn. Thầy MATHIEU RICARD bình luận việc nầy như sau: “Rút lui khỏi thế giới nầy để thiền định, chắc chắn là cách chuẩn bị để trở nên công minh hơn khi quay trở về với thế giới chung quanh.


Bác sĩ
THIERRY JANSSEN

HOÀNG PHONG (Pháp) lược dịch | Văn Hóa Phật Giáo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 58)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 310)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
(Xem: 523)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 698)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 697)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 736)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 858)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 836)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 949)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 746)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1075)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1289)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1038)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1315)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1170)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1126)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1336)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1634)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1439)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1557)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2432)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1980)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3076)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2261)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1774)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2622)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2211)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2590)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12225)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 2989)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6697)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4312)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2601)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3254)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2567)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3095)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2884)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3540)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3743)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3218)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3058)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4328)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6015)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5350)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5595)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3153)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5237)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2336)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2328)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2640)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2462)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 5036)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4860)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3967)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 4980)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4728)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4514)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3914)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
(Xem: 8578)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 5463)
Thiền định là một phép luyện tập thật cần thiết giúp phát huy tối đa các phẩm tính tinh thần như tình thương yêu, lòng từ bi và lòng vị tha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant