Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Chướng Ngại Trong Khi Hành Thiền

08 Tháng Năm 201908:30(Xem: 2642)
Năm Chướng Ngại Trong Khi Hành Thiền

NĂM CHƯỚNG NGẠI TRONG KHI HÀNH THIỀN
Thích Trung Định

 

Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái, làm cho việc thực tập thiền khó đạt được như ý muốn. Năm thứ này thường hay hiện khởi làm cho các đề mục thiền quán bị tán loạn, phân tâm và khó chú tâm đưa đến tịnh chỉ, an trú trên các đề mục thiền.

Có thể hiểu ngũ triền cái là những chướng ngại về tâm. Triề n là tró i buộ c. Tró i buộ c gì ? Tró i buộ c chú ng sanh trong khổ đau sanh tử luân hồ i. Cá i là che đậ y, tứ c mà n vô minh che lấ p bả n tâm thanh tị nh, và trí tuệ sá ng suố t. Năm triề n cá i là năm pháp làm trở ngại và che lấp tâm định. “Năm chướng ngại triền cái này, này các Tỷ-kheo, bao phủ tâm, làm yếu ớt trí tuệ” đó là tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá, và hoài nghi. Chúng được lưu ý vì đó là các chướng ngại cho thiền mà Đức Phật đã chỉ ra. Những phiền não này không chỉ chướng ngại cho sơ thiền mà còn là áp lực chính đối với nguyện vọng giải thoát giác ngộ của con người1 .

Chúng mang tên “triền cái” là vì chúng che án và bao phủ tâm, ngăn cản sự phát triển thiền ở cả hai lĩnh vực tịnh chỉtuệ giác. Về mặt kỹ thuật đối lập với thiền, chúng thường khá tinh tế trong hình thức: khi hành thiền đạt đến mức độ cuối cùng của sự đoạn tận các triền cáiđạt được quả vị A-la-hán. Khi đó chúng bị cắt đi như một ‘gốc cây cọ, vĩnh viễn không thể mọc lên lại được nữa. Vì lý do đó mà Đức Phật gọi năm triền cái là những “chướng ngại, ngăn che, làm uế nhiễm tâm, làm yếu trí tuệ”2 .

Hơn nữa, Ngài còn nói: “Năm triền cái, này chư Tỷkheo, tác thành si ám, tác thành không mắt, tác thành vô trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn”3 . Kinh điểnVi diệu pháp (Abhidhamma) đều chỉ ra cho thấy triền cái gây nhiều khó khăn và chướng ngại có thể làm che mờ tâm trí ở các mức độ thực hành khác nhau. Tất cả đều liên quan đến khối tác nhân gây đau khổ cho con người.

Năm triền cái được ví như sự vẩn đục của hồ nước theo năm cách khác nhau: Triền cái đầu tiên là ‘tham dục’, ví như nước bị nhuộm màu, do đó nó không còn trong sạch tinh khiết;  ‘sân hận’, như nước bị đun sôi trở nên hỗn loạn; hôn trầm-thụy miên, được ví như nước bị rong rêu bao phủ; trạo cử hối quá, như nước bị gió thổi làm tung tóe; và nghi ngờ, như bát nước được đặt trong bóng tối và làm rối loạn tâm (AN III, 229-36). Với việc loại trừ những trở ngại (triền cái) ấy, nước sẽ trong sạch tinh khiết trở lại.

Kinh tạ ng  Nikāya  còn phản ánh ý thức về sự hiện diện của những triền cái diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Một số bản kinh mô tả chúng hoạt động trong khi đi, đứng, nằm, ngồi; kể cả trong khi buôn bán, làm việc. Chúng tác động trực tiếp lên tâm ý và cơ thể. Chúng chi phối đến mọi hoạt động của con người làm nảy sinh ra những trạng thái tâm: chẳng hạn như không muốn làm những gì chúng ta đang làm, khởi lên những ham muốn cái gì khác, làm cho chúng ta trở nên bực bội, mệt mỏi, bồn chồn, hưng phấn và nghi ngờ tất cả những gì chúng ta đang làm. Một vòng tròn luẩn quẩn có nguyên nhânđiều kiện chi phối thân tâm chúng ta. Và nó được thấy rõ ràng nhất khi chúng ta thực hành thiền định.

Nội dung của năm triền cái

1. Tham dục: Tâm sở tham dụctrạng thái ưa thích, đam mê, ham muốn, dính mắc sự khát khao ‘năm dục lạc’ làm cho tâm phân tán khó tập trung. Nó là một hình thức của phiền não gốc tham, đó là một cách biểu hiện của ái mà Đức Phật xác nhận là nhân sanh khổ. Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại cho tâm định.

2.  Sân hậnTâm sở sân  biểu thị sự ghét bỏ,  trạng thái bất mãn, bất bình, không hài lòng đối với người hay vật, không vừa ý. Tầm mức của nó thay đổi từ sự bực mình nhẹ nhàng đến lòng oán hận thâm sâu. Sân làm cho tâm nóng nảy, khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền định.

3. Hôn trầm - thụy miên: Đây là một chướng ngại kép. Hôn trầm là sự đình trệ, dã dượi của tâm. Thụy miêntrạng thái mơ màng, ngái ngủ của thân. Hai tâm sở này đồng một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động, khiến cho tâm không thể chú hướng vào đề mục thiền định được.

4.  Trạo - hối: Tâm sở trạo cửtrạng thái phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ, nhất là về tương lai. Tâm sở hối quátrạng thái nóng nảy, ray rứt, hối tiếc về những sai lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm lẫn với trạng thái ăn năn, hối cải thuộc tâm thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất tháo động, bồn chồn, bất an khiến cho tâm không an lạc trên đề mục thiền định. Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm được vài giây thì tâm đã trượt khỏi đề mục. Nếu do lười chán hay giải đãi mà không an lạc, đó là triền cái hôn trầm thụy miên, nếu do suy nghĩ vẩn vơ hay hối tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là triền cái trạo hối.

5.  Nghi: Đức Phật giải thích nghi ngờ là sự không chắc chắn chủ yếu và sự thiếu tín nhiệm đối với bốn hạng mục: Phật, Pháp, Tăng, và Giới. Ở những nơi khác, Ngài giải thích tâm sở nghi là nghi ngờ liên quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, đoạn trừ được tâm sở này thì phải hiểu rõ định lý nguyên nhânđiều kiện. Tâm sở nghi có trạng thái lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này làm cho tâm không đứng vững được trên đề mục thiền định.

Hôn trầm thụy miêntâm sởtrạng thái thụ động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các tâm hữu trợ. Trạo hối và nghi là tâm sởtrạng thái dao động, làm cho tâm không sáng suốt, cho nên thay nhau có mặt trong hai tâm si.

Các triền cái tiêu biểu cho toàn bộ những trạng thái tâm ô nhiễm bao gồm ba bất thiện căn, tứ bộc, tứ kết, tứ lậu, tứ thủ, thập phiền não, thập kiết sử4 . Các triền cái được Đức Phật so sánh như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường đi qua sa mạc. Chúng che mắt con người khiến họ không thể thấy được lợi ích của bản thân mình, lợi ích của người khác hoặc lợi ích của cả hai. Do ảnh hưởng của các triền cái, con người làm những điều lẽ ra họ không nên làm và xao lãng những bổn phận lẽ ra họ phải làm. Chúng làm uế nhiễm tâm, suy yếu trí tuệ, tác thành si ám, tác thành không mắt, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết-bàn5 .  Ví như vàng bị suy kém bởi năm tạp chất - sắt, đồng, chì, thiếc và bạc - “không mềm dẻo, không dễ dùng, không chói sáng, dễ bể vụn và không thể chạm trổ tinh xảo được”. Tâm cũng vậy, bị uế nhiễm bởi năm triền cái, “không nhu nhuyến, không dễ dùng, không chói sáng, cứng rắn và không thể định tâm chân chánh vào việc đoạn trừ các lậu hoặc”6 .  Chính vì vậyĐức Phật nói về chúng: “Này các Tỷ-kheo, nếu ai nói một cách chân chánh về các triền cái, người ấy phải nói chúng là ‘một đống tâm bất thiện’, vì quả thực năm triền cái này là một đống tâm bất thiện hoàn toàn”7 .

Hình ảnh tiêu cực củ a những triền cái

Nhiều hình ảnh được sử dụng trong các kinh điển để mô tả những trở ngại hoặc chỉ hiệu lực và nguy hiểm của chúng. Trong kinh Tăng chi bộ, bản kinh Upakkilesa Sutta, Đức Phật đưa ra một ví dụ, so sánh năm triền cái giống như năm loại các tạp chất chứa trong vàng8 . Trong Āvaraṇa sutta, Ngài so sánh các triền cái giống như năm con đập được xây dựng trên một dòng sông, do vậy chúng sẽ làm chậm hoặc thậm chí ngăn chặn dòng chảy của nó9 .  Và trong  kinh Trung bộ, bản Đại kinh Xóm Ngựa, Ngài cảnh báo rằng: “Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc”10.

Ham muốn nhục dục như các con nợ: 

Triền cái đầu tiên là ham muốn đối với các đối tượng giác quan, đôi khi nó cũng được gọi là ‘sự khao khát thèm muốn với mọi thứ’. Tham dụctriền cái phổ biến nhất, sự biểu hiện của tham dục đối với sáu trần cảnh, cảm giác mơ mộng, hoặc bị phân tâm bởi một số kích thích tham muốn (đặc biệtâm thanhsuy nghĩ). Trong kinh  Tương ưng bộ (tập V, thiên Đại phẩm, chương Tương ưng Giác chi, phẩm Tổng nhiếp các Giác chi, đoạn kinh 55) bản kinh Saṅgārava mô tả tham dục như sự biểu hiện của một bát nước bị phản chiếu trên bề mặt của trộn với lắc, nghệ, thuốc nhuộm màu xanh lam, hoặc thuốc nhuộm đậm đặc11.

Đức Phật ví sự tham dục như thể đi vay nợ. Các sự khoái lạc ta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau khổ về biệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽ theo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái lạc đã tiêu tan. Cũng như bất cứ món nợ nào đều phải trả thêm lời, và như thế Đức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ra là nhỏ bé so với các đau khổ phải hoàn trả.

Sân hận như người đàn ông bị bệnh: Triền cái thứ hai là sân hận. Sân hậnmặt trái của tham dục. Nó là một cặp song sinh đi liền nhau. Bởi không thỏa mãn tham dục thì tâm sân hận hiện khởi. Mỗi khi tâm sân hận hiện khởi thì chúng đốt cháy cả rừng công đức (nhất niệm sân tâm khởi, bát vạn chướng môn khai). Sân hận không chừa một ai, làm mất lý trí, nên có thể bất kính với người lớn hơn hoặc ngang hàng, hoặc thậm chí trở nên khó chịu với những người khác tạo ra tiếng ồn, thiếu khiếm nhã, và không thể kiềm chế. Điều này cũng giống như cố gắng nhìn thấy sự phản chiếu của chúng ta trong một bát nước được đun sôi dữ dội trên một ngọn lửa mạnh12.

Đức Phật ví lòng sân hận như thể người bị bệnh. Bệnh tật cản trở sự tự dohạnh phúc của sức khỏe. Cũng như thế, lòng sân hận cản trở sự tự do và hành phúc của an bình.

Hôn trầ m, thụy miên như các tù nhân: Triền cái kép này đưa đến sự dã dượi thân và tâm, làm mất nhuệ khí, thiếu tinh tấntiến bộ tâm linh , đó là hôn trầmthụy miên. Lý do thật sự là năng lượng của một người rất nặng nề và bị tắc nghẽn do hậu quả của quá nhiều suy nghĩnhạo báng tinh thần. Điều này cũng giống như cố gắng tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong hồ nước tràn ngập với những cây rêu mọc đầy trong nước13. 

Đứ c Phật ví hôn trầ m thụ y miên như ngục tù . Ngườ i bị giam cầ m trong ngụ c tù thì không bao giờ thấ y tự do và thoả i má i. Hôn trầm thụy miên là một trạng thái khó chịu của thân và tâm, quá cứng đọng không thể đi vào sự an lạc của Thiền-na, và quá mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại, đây hoàn toàn là một sự phí phạm thì giờ.

Bồn chồn và trạo hối như nô lệ: Khi tâm trí của chúng ta bị lôi kéo vào trong quá khứ, nhớ lại những điều mà mình đã làm hoàn thiện hoặc chưa hoàn th iện nó cũng có thể có khả năng để trở thành hối hận. Khi tâm trí của chúng ta đi lang thang vào tương lai, tự hỏi phải làm gì sau khi thiền định, và như vậy, chúng ta có khả năng để trở nên bồn chồn, cả thân và tâm. Hoặc, chúng ta có thể quá vui mừng với tiến trình rõ ràng của chúng ta, hoặc nản lòng vì chúng ta thiếu tiến bộ: đó là sự bồn chồn và hối hận, đây là triền cái thứ tư. Điều này cũng giống như tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong hồ nước đang bị khuấy động và bị gió mạnh cuốn tung.

Đức Phậttrạo cử như một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảy theo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn luôn đòi hỏi sự toàn hảo, và như thế không bao giờ cho phép nó được dừng nghỉ. Hối hận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệp quả của các hành động bất thiện. Cách duy nhất để vượt qua hối hận, sự trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phải giữ gìn giới đức, tập sống tử tế, khôn ngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền14.

Nghi ngờ như các du kháchCuối cùng, người ta có thể cảm thấy rất nản lòng do những khó khăn và phiền nhiễu khác nhau. Người ta bắt đầu chỉ nghi ngờ khả năng suy niệm của một người hoặc không chắc chắn về mục đích thật sự của thiền định. Sự hoài nghi này là chướng n gại tâm thần thứ năm. Điều này cũng giống như việc tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong một bát nước bùn đục trong bóng tối15. Đức Phậtnghi ngờ như thể bị lạc trong sa mạc, không nhận ra được các mốc điểm. Ngườ i hà nh thiề n vượt qua bằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có một bản đồ tốt, để giúp ta thấy được các mốc điểm vi tế trong vùng đất không quen thuộc của tâm thiền sâu kín, và từ đó biết được con đường phải đi.

Như vậy, năm triề n cá i là năm hình ảnh tiêu cự c, nguy hiểm đố i vớ i ngườ i thự c hà nh thiề n đị nh. Nhiệ m vụ chí nh củ a thiề n sinh là vượ t qua năm triề n cá i để đạ t được cá c mức độ thiền. Trung bộ kinh dạy: “Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tự mình, quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, nh ư ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ-kheo, cũng như không mắc nợ, không bị bệnh tật được khỏi tù tội, được tự do, đến được đất lành yên ổn. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ”16.

Đoạn trừ năm triền cái Theo Thiền sư Henepola Gunaratana, con đường duy nhất để đoạn trừ tối hậu các triền cái là bốn đạo siêu thế. Và để đạt đến các siêu thế đạo này tất yếu phải có sự tu tập minh sát (vipassanā). Vì lẽ sự thâm nhập vào thực tánh của mọi hiện tượng (thấy rõ tam tướng) chỉ có ở đạo tuệ siêu thế mà thôi. Thế nhưng, muốn minh sát tuệ sanh khởi, các triền cái phải được làm cho suy yếu đến một mức nào đó. Ở đây, chúng không còn làm gián đoạn tiến trình quán chiếu.  Do đó, việc khắc phục sơ bộ các triền cái, kinh điển thường đưa ra hai giải pháp. Một là sự đè nén các triền cái bằng cách tu tập tịnh chỉ (samatha) ở mức cận định hoặc an chỉ định (jhāna); hai là sự trừ diệt các triền cái trong quá trình tu tập minh sát.

Muốn đoạn trừ sạch năm triền cái thì điều cần thiết là phải chứng năm thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm. Năm tâm sở này là những yếu tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Mỗi thiền chichức năngnhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và đoạn trừ hôn trầm thụy miên; tứ đoạn trừ nghi; hỷ đoạn trừ sân; lạc đoạn trừ trạo hốinhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ một triền cái tương ứng. Ngoài chức năngnhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền cái để đi đến an trú trong các tầng thiền.

Việc đoạn trừ năm triền cái khiến cho tâm trở nên thuần tịnh trong sáng, giống như vàng đã loại trừ các tạp chất. “Và khi nào, này các Tỷ-kheo, tâm được giải thoát khỏi năm uế nhiễm ấy; khi ấy tâm ấy được nhu nhuyến, dễ sử dụng, sáng chói, không bể vụn, chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc”17.

Khi năm triền cái được đoạn trừ, hành giả sống an lạc tự tại, làm chủ được cảm xúc, làm chủ được tâm ý. Trung bộ kinh dạy rằng: “Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp”18.

Việc đoạn trừ năm triền cái đánh dấu bước mở đầu của giải thoát, như kinh nói: “Khi năm triền cái đã được đoạn trừ, vị Tỷ-kheo tự mình quán thấy như người đã thoát nợ, hết bệnh, khỏi tù tội, một người tự do và như đất lành an ổn”. Cùng với sự đoạn trừ các triền cái, khả năng phát triển tâm linh của hành giả cũng được khai mở, không còn bị hạn chế. Cũng như vàng đã được tinh lọc khỏi năm tạp chất sẽ trở nên mềm dẻo, tinh chất, chói sángbền vững, có thể chạm trổ dễ dàng.

Như vậy, chúng ta đã đưa ra một cái nhìn tổng quan về tiềm năng của tâm trí để đạt được hạnh phúc cao nhất và tự giải thoát. Con người sẽ bị hạn chế nhiều mặt, trí tuệ yếu kém khi bị năm triền cái làm che lấp tâm tánh. Đức Phật, bậc thầy giác ngộ, đã chỉ ra cho chúng ta nhiều phương pháp khác nhau để hành giả ứng dụng tu tập nhằm vượt qua sự trở ngại từ chúng. 

Sách tham khảo: 1. Henepola Gunaratana, A Critical Analysis of the Jhanas in Theravdda Buddhist Meditation, The American University, Washington, 1980: Các ghi chú 1, 3, 7 trong bài. 2. Kinh Tăng chi bộ: Các chú thích 2, 5, 6, 8, 9, 17 trong bài. 3. Kinh Trường bộ: Chú thích 4 trong bài. 4. Kinh Trung bộ: Các chú thích 10, 16, 18 trong bài. 5. Kinh Tương ưng bộ: Chú thích 11 trong bài. 6. Piya Tan,  Nīvaraṇa, Mental Hindrances, 2010,  http:// dharmafarer.org, 24/07/2015: Các chú thích 12, 13, 15 trong bài. 7. Ajahn Brahmavamso, The Five Hindrances (Nivarana), Buddhist Society of Western Australia, Newsletter April 1999,  http://www.budsas.org, 27/07/2015: Chú thích 14 trong bài

Thích Trung Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19534)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33421)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34485)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54527)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37730)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21138)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17889)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22460)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56975)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13843)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29015)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33322)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38390)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14619)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12644)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19201)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13809)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12656)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30394)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11835)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30654)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29395)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30575)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31199)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37090)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32230)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23655)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12219)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14232)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14090)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33969)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27720)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12456)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28633)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29358)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12387)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29217)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27998)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25663)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26032)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22264)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33134)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31802)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39579)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22421)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34469)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27341)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28356)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31926)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant