Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Là Chìa Khóa Để Nhận Diện Chính Mình

03 Tháng Hai 202119:37(Xem: 2583)
Thiền Là Chìa Khóa Để Nhận Diện Chính Mình

Lời giới thiệu

Ni sư Pema Chodron là ni sư xuất sắc nhất hiện nay. Bà tu học theo các Lạt Ma Tây Tạng nhưng không vì thế mà hạn cuộc trong tông môn pháp phái. Bà học hỏi, trao đổi ý tưởng, giáo lý của tất cả các truyền thống. Bà hiện đang hoằng pháp ở Mỹ  nói riêng, Âu – Mỹ nói chung. Bà đã được đức Dalai Lama tiếp kiến, tổng thống Barac Obaa thỉnh mời vào Bạch Cung để tham vấn và còn rất nhiều những người nổi tiếng trên thế giới quy y với bà. Bà còn là người thành lập tổ chức từ thiệntu học Phật pháp PANA FOUNDATION for DHAMMA STUDIES, INC, Nevada… Ngôn ngữ hạn hạp và nghèo nàn, khó có thể nói hết hành trạngcông hạnh của bà, sau đây tôi xin dịch một bài viết mới nhất của bà về thiền Vipassana, bài này đăng trên trang nhà Pema Chodron – Buddhist Nun

 

Thiền Là Chìa Khóa Để Nhận Diện Chính Mình

Pema Chodron
Tiểu Lục Thần Phong

 
Pema

Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có. Nó giúp để nhận biết chính mình: cái phần thô tháo và cái phần mềm mỏng của chính chúng ta, sự đam mề, sự gây hấn, cái vô minhtrí huệ của chính chúng ta

Lý docon người hại con người, lý do mà trái đất chúng ta bị ô nhiễm nghiêm trọng, lý docon người và muôn loài động vật không được đối xử tốt, đấy là những ngày mà mỗi cá nhân không biết sự thật, không tin tưởng, không biết yêu thương một cách đầy đủ chính cái bản thân mình. Phương pháp thiền Vipassana ( Shammatha- Vipashyana/ Samatha- Vipassana) ( tiếng Pali) ( sự tịnh tâm), nó giống như chìa khóa vàng giúp chúng ta nhận biết rõ ràng chính mình

Trong thiền Vipassana ( Shamatha-Vipashyana) chúng ta ngồi thẳng lưng, hai chân bắt chéo ( kiết già hoặc bán già), mắt mở, hai tay đặt ( sao cho dễ chịu) trên đùi. Chúng ta chỉ đơn giảnnhận biết hơi thở đi ra, nó đòi hỏi sự chính xác được ở ngay với hơi thở, mặt khác, nó rất là thoải mái và mềm mại, nói rằng:” Ngay tại đây với hơi thở, khi nó đi ra”, cũng tương tự như “ sự có mặt một cách trọn vẹn”. Ngay tại đây với bất cứ điều gì đang xảy ra: tiếng động trên đường phố, ánh sáng trên tường, những điều đó thu hút sự chú ý của chúng ta, nhưng chúng ta không cần chúng nó. Chúng ta ngồi đây, nhận biết hơi thở đi ra.

Hơi thở chỉ là một phần của kỹ thuật, những tư tưởng suy nghĩ liền lạc xuyên suốt tâm của chúng ta lại là một phần khác. Chúng ta ngồi đây để nói chuyện với chính mình. Hướng dẫn là khi bạn nhận ra bạn đã suy nghĩ và cái nhãn hiệu “ suy nghĩ”. Khi tâm trí bạn ngừng lang thang, bạn nói với chính bản thân mình”suy nghĩ”, cho dù là sự suy nghĩ của bạn đầy bạo lực, đầy đam mê, hoặc đầy vô minh, thiếu hiểu biết và chối bỏ; cho dù suy nghĩ của bạn đầy lo lắng, sợ hãi; cho dù suy nghĩ của bạn hướng về tâm linh, những suy nghĩ làm hài lòng, những suy nghĩ an ủi, suy nghĩ làm nâng cao tinh thần, bất cứ cái gì mà chúng có, không có sự lên án hay sự quấy rối nghiệt ngã, tất cả đơn giản chỉ là cái nhãn hiệu“ suy nghĩ”, hãy thực hành với sự trung thực và nhẹ nhàng thoải mái

Cái chạm trên hơi thở là ánh sáng, chỉ có hai mươi lăm phần trăm của nhận thức trên hơi thở. Các bạn không cần nắm bắt hay sửa chữa nó, Các bạn đang mở, hãy để hơi thở đi ra và hòa vào không gian của căn phòng, chỉ đơn giản để hơi thở bạn hòa vào trong không gian. Sau đó, có cái gì đó như tạm dừng lại, một khoảng thì hơi thở kế tiếp lại thở ra. Trong lúc bạn hít vào, có thể có những cảm giác mở ra và chờ đợi, nó giống như bạn bấm chuông cửa và chờ đợi ai đấy trả lời, sau đó bạn lại bấm chuông của lần nữa và chờ đợi ai đấy trả lời. Sau đó, đại khái là tâm bạn lang thang và bạn  nhận ra là bạn suy nghĩ lại, tại cái điểm này dùng kỹ thuật ghi nhãn

Điều quan trọng là phải tin và trung thành với kỹ thuật này, nếu như bạn thấy cái nhãn nó thô tháo, nghiệt ngã, tiêu cực thì cũng giống như bạn buột miệng nói lời thô lỗ “ Dammit!” là bạn đang tự cho mình một thời gian khó khăn, nói lại lần nữa và làm cho nó sáng lên. Nó không giống như là cố gắng để bắn hạ những suy nghĩ như thể chúng nóbồ câu bằng đất sét. Thay vào đó là nhẹ nhàng, dùng kỹ thuật ghi nhãn này như một cơ hội để làm tăng trưởng sự mềm mại và từ tâm cho chính mình. Bất cứ điều gì tăng trưởng lên là tốt trong lĩnh vực thiền định. Điểm quan trọng là bạn có thể nhìn thấy nó một cách trung thựckết bạn với nó

Mặc dù nó ngăn ngại và đau đớn nhưng nó hiệu quả để chữa  bệnh để dừng sự lẩn trốn chính mình, đó là chữa bệnh để biết tất cả các cách mà bạn đang lén lút, tất cả các cách mà bạn đang trốn bên ngoài, tất cả các cách mà bạn ngắt nguồn, từ chối, đóng chặt và phê bình chê bai mọi người, tất cả những cách nhỏ bé quái dị của bạn, Bạn có thể biết tất cả những điều đó với cảm giác hài hước và tử tế, bằng cách hiểu biết chính mình là bạn đang trên đường hiểu biết nhân văn

Nói chung tất cả chúng ta đều đấu tranh chống lại những điều này, vì vậy  khi bạn nhận ra bạn đang nói chuyện với chính mình, cái nhãn “ suy nghĩ” và nhận thấy âm điệu giọng nói của chính bạn, hãy để nó trở nên từ tâm, nhẹ nhàng và hài hước. Sau đó bạn sẽ được thay đổi cái kiểu thức cũ kỹtoàn bộ loài người cùng xài chung. Từ tâm đối với người khác bắt đầu bằng sự tử tế với chính bản thân của chúng ta.

 

Vài nét về Pema Chodron

Tên thật khai sinh của bà Deidre Blomfield Brown, bà sinh năm 1936, tại New York. Bà theo học trường Miss Porter, tốt nghiệp đại học Berkeley, California. Bà là giáo viên cấp tiểu học trong nhiều năm, dạy ở New Mexico và California

Bà gặp sư Lama Chime Rinpoche trên dãy Alps- Pháp, năm ấy bà ba mươi tuổi. Năm 1974, khi theo học với Lama Chime bà trở thành nữ tu mới ( sa di ni ) ở London, cũng trong năm này bà nhận được sự tấn phong từ đức Dalai Lama

Chogyam Trungpa Rinpoche là vị thầy căn bản của bà, năm 1972 Lama  Chime đã khuyến khích bà học tập với Rinpoche và cả với chính ông. Bà có mối quan hệ sâu sắc, học tập với ông từ 1974 cho đến 1987, khi ông viên tịch. Theo yêu cầu của Karmapa XVI vào năm 1981,  tại Hồng Kông bà nhận sắc phong đầy đủ từ một tu viện thuộc dòng truyền thừa Trung Quốc

Bà là giám viện Karma Dzong ở Boulder, năm 1984 di chuyển đến Cape Breton- Nova Scotia để làm giám viện Gampo Abbey. Chogyam Trungpa Rinpoche yêu cầu bà hướng đến thành lập một tu viện cho  tăng và ni người Âu – Mỹ

Bà hiện giảng dạy ở Mỹ và Canada và có kế hoạch tăng thời gian cho việc tịnh tu một mình, dưới sự hướng dẫn của hòa thượng Dzigar Kongtrul Rinpoche. Bà tận tâm hướng dẫn việc thiết lập truyền thống tu viện ở Âu – Mỹ, sogn song đó là việc tận tụy với các Phật tử của mình. Bà chia sẻ ý tưởnggiáo lý của tất cả các tuyền thống khác nhau.

 

Dịch Việt: Tiểu Lục Thần Phong

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33413)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34478)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37722)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21131)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63648)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17380)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49656)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14486)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22449)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29011)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33312)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38380)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13906)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14302)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12636)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14815)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19198)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30382)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11825)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30649)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29391)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30569)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31197)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37080)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32224)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23649)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12214)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14231)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14086)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33960)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27710)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12444)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28625)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29346)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12384)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29210)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27989)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25658)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26025)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22256)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33124)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31798)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39575)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22410)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34454)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27337)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28348)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35250)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 31924)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant