Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Pháp Thực Hành Thiền Dễ Nhất Mang Lại Kết Quả Thù Diệu

25 Tháng Mười Một 202120:03(Xem: 2615)
Phương Pháp Thực Hành Thiền Dễ Nhất Mang Lại Kết Quả Thù Diệu
Phương Pháp Thực Hành Thiền Dễ Nhất Mang Lại Kết Quả Thù Diệu

HT.
Mahasi Sayadaw
Tỳ Khưu Khánh Hỷ soạn dịch
HT. Kim Triệu hiệu đính
 
Chánh Niệm Trong Đời Thường

Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm. Nhưng dần dần, sau khi đã thiền được bốn năm mươi giờ, tâm định của bạn sẽ lớn mạnh. Tâm không còn vọng động nhiều nữa mà dính chặt vào đề mục hành thiền của bạn.

Cách thực hành Bát Chánh Đạo

Khi ngồi thiền, thiền sinh ngồi theo nhiều cách khác nhau. Có thể ngồi theo lối kiết già: hai chân tréo nhau, hai bàn chân đặt lên hai vế; có thể theo lối bán già: chân này đặt lên chân kia hoặc ngồi theo lối tự nhiên thoải mái, hai chân rời nhau không chân nào chồng lên chân nào, chân này để trước chân kia . Để có thể ngồi lâu, ngày nay một số nơi trên thế giới, thiền sinh có thể ngồi trên ghế. Nhưng dầu ngồi xếp bằng hay ngồi trên ghế lưng cũng phải giử thẳng. Mục đích giử thẳng lưng là để sự tinh tấn không bị suy yếu. Thiền sinh cũng không được dựa vào vách hay thành ghế. Tâm phải chú vào đề mục thiền. Dầu thiền Kasina (dùng đối tượng bên ngoài như đất, nước, màu sắc v.v...), quán sát thân bất tịnh hay niệm hơi thở, tâm cũng phải dán chặt vào đối tượng thiền.

Thiền Minh Sát (vipassana) là quán sát các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa giác quan. Thoạt đầu, thiền sinh khó có thể quán sát tất cả các hiện tượng xảy ra ở sáu cửa, do đó chỉ cần chú tâm đến một ít hiện tượng mà thôi. Đó là lý do tại sao thiền sinh được đề nghị chú tâm vào chuyển động phồng xẹp của bụng, theo dõi sự chuyển động của bụng. Thiền sinh dùng tâm để quán sát các chuyển động ở bụng chứ không phải dùng mắt, do đó khi ngồi thiền, thiền sinh nên nhắm mắt lại.

Khi bụng phồng lên, ghi nhận "phồng"; và khi bụng xẹp xuống, ghi nhận "xẹp".

Không cần phải niệm ra miệng. Chỉ ghi nhận thầm trong tâm mà thôi. Nhớ là chú tâm vào chuyển động phồng xẹp chứ không chú tâm vào chữ phồng xẹp.

Phải theo dõi chuyển động phồng xẹp từ lúc phồng bắt đầu cho đến lúc phồng chấm dứt, từ lúc xẹp bắt đầu cho đến lúc xẹp chấm dứt. Đây là sự quán sát yếu tố chuyển động hay yếu tố gió của bụng biểu hiện qua sự căng cứng, sự bành trướng, sự rung chuyển của bụng.

Trong khi đang ghi nhận các chuyển biến của bụng, nếu có tư tưởng gì đến phải cẩn thận ghi nhận. Sự ghi nhận này gọi là Niệm Tâm. Sau khi ghi nhận "suy nghĩ", hãy trở về với đề mục chuyển động "phồng" hoặc "xẹp".

Trong khi đang theo dõi chuyển động phồng xẹp, nếu có sự đau, nhức phát sinh, hãy ghi nhận "đau, đau" hay "nhức, nhức". Đó là niệm Thọ (niệm cảm giác) rồi lại trở về với chuyển động phồng xẹp.

Khi đang theo dõi chuyển động của bụng, nếu tai nghe gì hãy ghi nhận "nghe, nghe" rồi trở về với chuyển động phồng xẹp. Đó là niệm Pháp.

Trên đây là sơ lượt về cách hành thiền minh sát. Bây giờ các bạn hãy hành thiền trong hai phút.

Giải thích

Hai phút đã trôi qua. Trong mỗi phút, bạn ghi nhận khoảng năm mươi hay sáu mươi lần. Trong mỗi sự ghi nhận bạn đã thực hành Bát Chánh Đạo. Các bạn thử xem Bát Chánh Đạo thể hiện như thế nào.

Cố gắng ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng là Chánh Tinh Tấn.

Theo dõi, ghi nhận đề mụcChánh Niệm.

Tâm không rời đề mục, luôn luôn chú tâm trên đề mụcChánh Định.

Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định là Định Đạo.

Biết rõ đề mục ghi nhậnChánh Kiến.

Lúc mới bắt đầu thực tập ghi nhận, Chánh Kiến chưa rõ ràng. Nhưng dần dần bạn sẽ thấy rõ rằng chỉ có thân và tâm trong mọi tác động ghi nhận, ngoài ra chẳng có gì nữa cả. Vì có ý muốn di chuyển nên tác động di chuyển mới xảy ra. Vì có vật để nhìn nên mới có tâm nhìn. Thiền sinh sẽ phân biệt được nhân và quả trong mỗi tác động. Mọi vật hiện ra một cách thật mới mẻ rồi lại biến mất ngay. Đây cũng là một sự thật hiển nhiên. Sự ghi nhận này cho ta thấy một luồng sinh diệt, sinh diệt diễn ra khiến thiền sinh ý thức được sự biến chuyển hay đặc tính Vô Thường của vạn pháp. Một cái thân tâm cũ chết đi, một cái thân tâm mới lại sinh ra. Thân tâm mới sinh ra lại chết đi, để một thân tâm khác sinh ra. Sinh sinh diệt diệt không ngừng. Cái chết đến từng khoảnh khắc một. Cuộc sống này thật đau thương sợ hãi làm sao. Thiền sinh lại nhận thức ra rằng mọi vật diễn biến theo chiều hướng riêng, không ai có thể kiểm soát được chúng; chẳng có linh hồn hay bản ngã gì cả. Tất cả mọi hiểu biết trên là Chánh Kiến.

Khi hành thiền, tâm không suy nghĩ đến đến các điều bất thiện, tâm hướng vào đề mục, đó là Chánh Tư Duy.

Chánh KiếnChánh Tư Duy lập thành Tuệ Đạo.

Ba Định Đạo và hai Tuệ Đạo được bản chú giải gọi là năm Kanaka Maggangas (Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh KiếnChánh Tư Duy). Chúng hoạt động như một nhóm thợ năm người, mỗi người giữ một nhiệm vụ riêng, công việc chỉ hoàn thành được do sự hợp lực của cả năm người. Cùng thế ấy năm Định Tuệ Đạo này phải hoạt động hài hòa trong mỗi tác động ghi nhậný thức. Sự hài hòa của Năm Định Tuệ Đạo này là sức mạnh kỳ diệu để triển khai trí tuệ minh sát.

Giữ giới không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnhChánh Nghiệp.

Giữ giới không nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời vô íchChánh Ngữ.

Nuôi mạng sống chân chánh, tránh xa các nghề nghiệp bất thiệnChánh Mạng.

Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng tạo thành Giới Đạo. Giới Đạo được trọn vẹn khi thiền sinh biết giữ gìn giới luật.

Lúc hành thiền mỗi tác động ghi nhận đều bao gồm Bát Chánh Đạo trong đó. Mỗi lần chánh niệm ghi nhận, Bát Chánh Đạo sẽ được khai triển, và đường đến Niết Bàn nhân đó sẽ được thâu ngắn dần. Mỗi một niệm đưa ta đến gần Niết Bàn hơn. Niệm cuối cùng là bước cuối cùng đưa đến nơi giải thoát.

Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm. Nhưng dần dần, sau khi đã thiền được bốn năm mươi giờ, tâm định của bạn sẽ lớn mạnh. Tâm không còn vọng động nhiều nữa mà dính chặt vào đề mục hành thiền của bạn. Lúc bấy giờ, khi quán sát chuyển động phồng xẹp của bụng bạn sẽ phân biệt được rằng phồng là một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Khi ghi nhận sự xẹp thì bạn cũng thấy được xẹp là một chuyện và tâm ghi nhận xẹp là một chuyện khác. Khi ghi nhận "chuyển động" hay "đi", bạn sẽ phân biệt được sự chuyển động hay đi là một chuyện và tâm ghi nhận chúng là một chuyện khác. Khi ghi nhận "thấy", bạn sẽ phân biệt rõ mắt và vật thấy là một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Khi ghi nhận "nghe" bạn sẽ phân biệt được tai và âm thanh một chuyện, tâm ghi nhận là một chuyện khác. Phân biệt được đối tượng ghi nhận và tâm chi nhận là bạn đã khai triển được "Tuệ Phân Biệt Vật Chất Và Tâm". Ở tuệ này, bạn biết rõ và phân biệt rõ thế nào là vật chất, thế nào là Tâm.

Đến mức độ tiến bộ này, nếu tâm địnhtrí tuệ bạn phát triển mạnh hơn, bạn sẽ tự mình thấy rõ rằng: Vì có thở mới có sự phồng và xẹp. Vì có sự phồng và xẹp nên mới có sự ghi nhận "phồng", "xẹp". Vì có ý định đi nên bạn mới đi. Vì bạn di chuyển và đi nên mới có sự ghi nhận "di chuyển" và "đi". Vì có vật để thấy nên bạn thấy. Vì bạn thấy nên có sự ghi nhận "thấy, thấy". Vì có tiếng động nên bạn nghe. Vì có nghe nên bạn mới có ghi nhận "nghe, nghe" v.v... ở giai đoạn này, bạn tự mình thấy rõ Nhân và Quả. Vậy là bạn đã có "Tuệ Thấy Nhân Quả".

Lại nữa, nếu bạn không ghi nhận mỗi khi có sự thấy nghe thì bạn sẽ bị đắm mình trong ảo tưởng rằng tất cả sự vật đều trường tồn, đáng yêu, hạnh phúc, và có tự ngã. ảo tưởng này khiến bạn đắm say vào sự vật và cố gắng nắm giữ những gì mà mình ưa thích. Sự luyến ái này tạo ra nghiệp lực khiến bạn phải tái sanh nhiều lần. Vì có sự tái sanh nên có già, đau, chết. Bao lâu còn tái sanh thì tinh thần và thể xác còn chịu đau khổ. Bởi thế bạn phải luôn luôn chú tâm ghi nhận bất kỳ thứ gì diễn ra ở sáu cửa giác quan. Chú tâm ghi nhận, thì trí tuệ bạn ngày càng khai mở để tiến đến những tuệ giác cao hơn. Khi sự tinh tấntrí tuệ phát triển mạnh mẽ, bạn sẽ thấy rõ rằng "đối tượng thiền" và "tâm ghi nhận đối tượng" vừa mới sinh ra lại biến mất đi ngay. Nghĩa là bạn sẽ thấy rõ "đối tượng mà bạn chú tâm vào" và "sự chú tâm ghi nhận đối tượng" sinh ra rồi diệt ngay lúc bạn ghi nhận. Lúc ấy bạn sẽ tự ý thức rằng cái gì sinh ra liền diệt ngay thì cái đó là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Có được trực giác kinh nghiệm này là bạn đã đạt được "Tuệ Tri Kiến", thấy rõ mọi sự vật đều mang đặc tướng Vô Thường, Khổ và Vô Ngã.

Khi tuệ tri kiến ngày một mạnh, bạn lại thấy rõ sự sinh diệt của các hiện tượng nhanh chóng hơn, bạn thấy rõ cách thức các pháp sinh ra và diệt ngay tức khắc, là có được "Tuệ Sinh Diệt". Khi được Tuệ Sinh Diệt bạn sẽ thấy ánh sáng bao phủ khắp mình, toàn thân và tâm đều có phỉ lạc, hạnh phúc tràn ngập. Càng chú tâm chánh niệm ghi nhận đề mục bạn càng thấy sự sinh diệt diễn ra nhanh chóng hơn.

Trước đây, bạn thấy sự vật sinh rồi diệt, nay sự sinh diệt quá nhanh khiến bạn chỉ thấy diệt mà không thấy sanh nữa, thế là bạn có được Tuệ Diệt. Khi có Tuệ Diệt bạn sẽ thấy tay chân, thân thể hay bất cứ cái gì bạn chú tâm vào đều giả tạm, tất cả đều là một chuỗi hủy diệt, bạn sẽ thấy rằng vật được ghi nhận và tâm ghi nhận đều bị diệt đi ngay một cách nhanh chóng.

Khi đạt được "Tuệ Xã" thì ý thức sáng suốtchánh niệm sẽ nội tại trong bạn, một cách tự nhiên, bạn không cần cố gắng vẫn có chánh niệm như thường. Lúc bấy giờ chỉ có chánh niệm và tâm xả mà thôi. Thiền sinh sẽ nhận thấy rằng chuyện ngồi thiền, một giờ, hai giờ, hay ba giờ... đối với mình là chuyện dễ dàng. Cứ ngồi xuống là dính vào đề mục ngay, không gặp chút trở ngại nào. Đến giai đoạn này, không những lúc ngồi thiền, mà trong mọi tư thế, bạn đều có chánh niệm tốt đẹp. Chẳng hạn như lúc thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng tâm vẫn luôn luôn có ý thức sáng suốtchánh niệm. Đây là một trạng thái thật tốt đẹp vì mỗi động tác đều được ghi nhận một cách chánh niệm, giúp phát triển Bát Chánh Đạo, đường đến Niết Bàn.

Vậy thì, hãy bắt đầu bằng sự chánh niệm ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng. Hãy tinh tấn chú tâm quán sát mọi sự xuất hiện của các hiện tượng vật chất và tâm càng nhiều càng tốt.

Với sự quán sát chánh niệm liên tục như thế này, cầu mong các bạn sẽ khai triển được tuệ giác và chóng đạt được đạo quảNiết Bàn Phật.

Nguồn trích từ Giáo huấn cao thượng của Đức Phật
Hòa thượng Mahasi
Tỳ Khưu Khánh Hỷ soạn dịch
Hòa Thượng Kim Triệu hiệu đính



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19828)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19516)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33395)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54499)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37705)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21125)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17866)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17374)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49640)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16857)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16363)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14478)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22424)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 56954)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13831)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33289)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38368)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31219)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13891)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14610)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14296)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12630)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14804)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19194)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13804)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12643)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30369)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11816)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30640)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29360)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30549)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31178)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37033)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32214)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23631)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12205)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14223)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14076)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33946)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27703)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12437)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28601)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29327)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12375)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29187)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 27983)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25632)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26007)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22232)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33110)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31779)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39563)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22380)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34430)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27318)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28338)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35232)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant