Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Ngộ tánh luận

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14134)
5. Ngộ tánh luận

THIẾU THẤT LỤC MÔN
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, Nguyễn Minh Hiến hiệu đính Hán văn

NGỘ TÁNH LUẬN

Nói chung, đạo lấy tịch diệt làm thể, việc tu tập lấy sự lìa bỏ hình tướng làm tông chỉ. Cho nên kinh dạy rằng: “Tịch diệt chính là Bồ-đề, vì đã dứt hết mọi hình tướng.”

Phật là giác, nghĩa là tỉnh thức, rõ biết. Người có tâm tỉnh thức, rõ biết, hiểu được đạo Bồ-đề cho nên xưng là Phật.

Kinh dạy rằng: “Lìa bỏ hết thảy mọi hình tướng, liền gọi là chư Phật.” Cho nên biết rằng mọi hình tướng có đó chính là cái tướng “không tướng”, không thể dùng mắt để thấy, chỉ có thể dùng trí để biết. Nếu ai nghe được pháp này mà phát sinh một niệm tin nhận, đó là đã phát khởi pháp Đại thừa, liền vượt thoát ngoài ba cõi.

Ba cõi đó chính là tham lam, sân hậnsi mê. Khi chuyển hóa được tham, sân, si trở thành giới, định, huệ liền gọi là vượt thoát ngoài ba cõi.

Nhưng tham, sân, si cũng không có tánh thật, chỉ do nơi chúng sinh gọi tên. Nếu thường quay vào tự tâm soi rọi rõ biết sẽ thấy rằng tánh của tham, sân, si chính là tánh Phật. Ngoài tham, sân, si ra thật không riêng có tánh Phật nào khác.

Kinh dạy rằng: “Chư Phật xưa nay thường ngụ trong ba độcnuôi dưỡng các pháp thanh tịnh, thành bậc xuất thế.” Ba độc đó, chính là tham, sân, si.

Nói pháp Đại thừa hay Tối thượng thừa đều là nói đến chỗ sở hành của Bồ-tát. Không gì không là pháp ấy, lại cũng không có gì là pháp ấy. Suốt ngày tu pháp ấy mà chưa từng tu pháp, đó là Phật thừa. Kinh dạy rằng: “Vô thừa là Phật thừa.”

Như có người nào rõ biết rằng sáu căn là không thật, năm uẩn đều là tên gọi giả tạo, cầu tìm khắp trong đó cũng không có chỗ nào chắc thật, nên biết rằng người ấy đã hiểu được lời Phật dạy. Kinh dạy rằng: “Nơi tụ hội của năm uẩn gọi là thiền viện. Soi sáng trong tâm, mở thông rõ biết tức là pháp Đại thừa. Không nhớ tưởng bất cứ pháp nào nên gọi là thiền định.” Nếu như hiểu rõ được lời dạy này thì dù trong khi đi đứng nằm ngồi cũng đều là thiền định.

Rõ biết tâm là không, gọi là thấy Phật. Vì sao vậy? Mười phương chư Phật đều dùng chỗ tâm không ấy. Không thấy ở nơi tâm gọi là thấy Phật. Lìa bỏ tâm không tham tiếc gọi là sự bố thí lớn lao.

Không còn xao động và yên định, đó gọi là phép ngồi thiền cao tột. Vì sao vậy? Người phàm tục thảy đều hướng theo xao động, hàng tiểu thừa thảy đều hướng theo yên định, nên nói rằng vượt qua khỏi chỗ ngồi thiền của người phàm tục và hàng tiểu thừa gọi là pháp ngồi thiền cao tột. Nếu nhận hiểu được điều này thì hết thảy các tướng không lìa mà tự cởi mở, hết thảy các bệnh không trị mà tự khỏi. Đó đều là nhờ sức định của pháp thiền cao tột.

Lấy tâm để cầu pháp là mê, không lấy tâm cầu pháp là ngộ. Không trói buộc vào văn tự gọi là giải thoát. Chẳng nhiễm sáu trần gọi là giữ được pháp. Lìa khỏi sinh tử gọi là xuất gia. Không còn thọ lãnh thân đời sau gọi là được đạo. Chẳng sinh vọng tưởng gọi là Niết-bàn. Chẳng ở trong vô minh gọi là trí huệ lớn. Chẳng còn nơi nào phiền não gọi là nhập vào Niết-bàn. Chẳng còn nơi nào có hình tướng gọi là bờ bên kia.

Khi mê có bờ bên này, khi ngộ không có bờ bên này. Vì sao vậy? Người phàm tục thảy đều hướng về ở nơi bờ bên này. Nếu là người hiểu rõ được pháp Tối thượng thừa, tâm chẳng ở nơi bờ bên này, cũng chẳng ở nơi bờ bên kia, nên có thể lìa cả đôi bờ. Nếu thấy bờ bên kia khác với bờ bên này, ấy là trong tâm thật khôngthiền định.

Phiền não gọi là chúng sanh, tỉnh giác rõ biết gọi là Bồ-đề, chẳng phải là một, cũng chẳng phải khác nhau, chỉ phân cách do nơi mê với ngộ mà thôi. Khi mê có cõi thế để ra khỏi, khi ngộ chẳng có cõi thế nào để có thể ra khỏi.

Trong pháp bình đẳng không thấy rằng kẻ phàm phu khác với bậc thánh. Kinh dạy rằng: “Pháp bình đẳng đó, người phàm tục không thể nhập vào, bậc thánh nhân không thể thực hành. Pháp bình đẳng đó, chỉ có bậc Đại Bồ Tátchư Phật Như Lai thực hành được.” Nếu thấy rằng sống khác với chết, động khác với tĩnh, đều gọi là không bình đẳng. Không thấy phiền não khác với Niết-bàn, đó gọi là bình đẳng. Vì sao vậy? Vì phiền não với Niết-bàn cũng cùng một tánh không.

Vì thế, hàng tiểu thừa dứt phiền não, nhập Niết-bàn đều là hư vọng, nên bị vướng mắc nơi Niết-bàn. Bồ Tát biết tánh thật của phiền não là không, liền chẳng lìa bỏ không, nên thường trụ nơi Niết-bàn.

Niết-bàn đó, niết mà không sinh, bàn mà không tử. Vượt thoát sinh tử gọi là vào Niết-bàn. Tâm không còn có chỗ đến đi, liền vào Niết-bàn. Cho nên biết rằng Niết-bàn chính là tâm không.

Chư Phật vào Niết-bàn, đó là nơi không còn vọng tưởng. Bồ Tát vào đạo trường, đó là nơi không còn phiền não. Nơi thanh nhàn tịch tĩnh tức là không có tham, sân, si.

Tham là cõi Dục (Dục giới), sân là cõi Sắc (Sắc giới), si là cõi Vô sắc (Vô sắc giới). Nếu tâm khởi sinh một niệm, liền vào trong ba cõi. Một niệm trong tâm vừa dứt, liền ra khỏi ba cõi. Cho nên biết rằng ba cõi sinh diệt, muôn pháp có không đều chỉ do một tâm này.

Nói chỉ một tâm này, tưởng như là phá vỡ hết muôn vật vô tình tre cây, ngói đá. Nhưng nếu biết rằng “tâm” cũng chỉ là một tên gọi giả tạo, không có thực thể, thì liền biết được cái tâm tự tịch tĩnh, cũng không phải có, cũng chẳng phải không. Vì sao vậy? Kẻ phàm tục thảy đều hướng đến sinh tâm nên gọi là có. Hàng Tiểu thừa thảy đều hướng đến diệt tâm nên gọi là không. Chư Phật, Bồ Tát chưa từng sinh tâm, chưa từng diệt tâm, nên gọi là tâm chẳng có chẳng không. Tâm chẳng có chẳng không, đó gọi là trung đạo.

Cho nên biết rằng, dùng tâm để học pháp thì tâm với pháp đều mê. Không dùng tâm để học pháp thì tâm với pháp đều ngộ. Mê, đó là mê ở nơi ngộ. Ngộ, đó là ngộ ở nơi mê. Người có được cái thấy chân chánh thì biết rằng tâm vốn không không, liền vượt thoát cả mê và ngộ. Không có mê ngộ mới gọi là thấy biết chân chánh.

Sắc, chẳng phải tự là sắc, do nơi tâm nên là sắc. Tâm chẳng phải tự là tâm, do nơi sắc nên là tâm. Cho nên biết rằng cả hai tướng tâm và sắc đều có sinh diệt.

Có, đó là đối với không. Không, đó là đối với có. Như vậy gọi là cái thấy chân thật.

Cái thấy chân thật thì chẳng có gì là không thấy mà cũng chẳng có gì thấy. Thấy khắp mười phương mà chưa từng thấy. Vì sao vậy? Vì không có gì để thấy, vì thấy được cái không thấy, vì thấy mà không phải là thấy.

Những gì người phàm tục nhìn thấy đều gọi là vọng tưởng. Nếu đạt đến tịch diệt không nhìn thấy mới gọi là cái thấy chân thật.

Do tâm và cảnh đối nhau mà phát sinh cái thấy. Nếu trong không khởi tâm thì ngoài không sinh cảnh, do đó mà tâm và cảnh đều thanh tịnh, mới gọi là cái thấy chân thật. Khi hiểu biết được như vậy mới gọi là thấy biết chân chánh.

Không thấy hết thảy các pháp, gọi là đắc đạo. Không hiểu hết thảy các pháp, gọi là hiểu pháp. Vì sao vậy? Vì không thấy cả chỗ thấy và không thấy, vì không hiểu cả chỗ hiểu và không hiểu. Cái thấy không thấy mới gọi là cái thấy chân thật. Cái hiểu không hiểu mới gọi là cái hiểu chân thật.

Cái thấy chân thật đó, chẳng phải thấy ngay trước mắt mà thấy, cũng là thấy chỗ không thấy. Cái hiểu chân thật đó, chẳng phải hiểu ngay trước mắt mà hiểu, cũng là hiểu chỗ không hiểu. Nếu có chỗ hiểu đều gọi là không hiểu. Không có chỗ hiểu mới gọi là cái hiểu chân thật. Hiểu và chẳng hiểu đều chẳng phải là hiểu.

Kinh dạy rằng: “Không lìa bỏ trí huệ, gọi là ngu si.” Nếu tâm là không thì hiểu với không hiểu đều là chân thật. Nếu tâm là có thì hiểu với không hiểu đều là hư vọng.

Như khi hiểu rồi thì các pháp đuổi theo người. Như khi chưa hiểu thì người đuổi theo các pháp. Nếu các pháp đuổi theo người thì không phải pháp cũng thành pháp. Nếu người đuổi theo các pháp thì pháp cũng thành không phải pháp.

Nếu người đuổi theo các pháp thì các pháp pháp đều là hư vọng. Nếu pháp đuổi theo người thì các pháp đều là chân thật.

thế cho nên bậc thánh nhân không dùng tâm để cầu pháp, cũng không dùng pháp để cầu tâm, không dùng tâm để cầu tâm, cũng không dùng pháp để cầu pháp. Do đó mà tâm không sinh pháp, pháp không sinh tâm, tâm pháp đều vắng lặng nên thường trong định.

Tâm chúng sinh vừa sinh thì pháp Phật diệt. Tâm chúng sinh vừa diệt thì pháp Phật sinh. Tâm sinh thì pháp chân thật diệt. Tâm diệt thì pháp chân thật sinh. Rõ biết hết thảy các pháp thảy đều không phụ thuộc nhau, đó gọi là người đắc đạo. Rõ biết tâm không phụ thuộc hết thảy các pháp, người như thế thường ở trong đạo tràng.

Khi mê có tội, khi hiểu rõ thì không còn có tội. Vì sao vậy? Vì tánh của tội là không. Khi mê thì không tội thấy là có tội. Nếu như hiểu rõ rồi thì tội chính là không tội. Vì sao vậy? Vì tội vốn chẳng ở tại đâu cả.

Kinh dạy rằng: “Các pháp không thật tánh, thật dùng thì chớ nghi. Có nghi liền thành tội.” Vì sao vậy? Vì tội do nơi nghi ngờ mà sinh. Nếu hiểu được như vậy thì tội nghiệp đời trước liền tiêu mất hết.

Khi mê thì sáu thức, năm ấm đều là pháp phiền não sanh tử. Khi ngộ thì sáu thức, năm ấm đều là pháp Niết-bàn không sanh tử. Người tu hành không cầu đạo ở bên ngoài. Vì sao vậy? Rõ biết tâm chính là đạo. Khi được tâm rồi, thật không có tâm nào để được. Khi đắc đạo rồi, thật không đạo nào để đắc. Nếu ai nói dùng tâm cầu đạo mà được, đều gọi là tà kiến.

Khi mê thì có Phật, có pháp. Khi ngộ thì không Phật, không pháp. Vì sao vậy? Chỗ ngộ ấy chính là Phật pháp.

Người tu đạo, thân diệt thì đạo thành, cũng như vỏ hạt nứt thì mầm cây sinh. Cái thân nghiệp báo này liên tục biến đổi vô thường, không một pháp chắc thật. Chỉ nên tùy theo đó mà không ngừng tu tập, không được chán lìa sinh tử, cũng không được đắm mê sinh tử. Chỉ thường trong mỗi niệm đều không vọng tưởng thì ngay trong đời này có thể chứng Niết-bàn hữu dư, lìa bỏ thân này sẽ được Vô sinh pháp nhẫn.

Khi mắt nhìn thấy hình sắc, chẳng nhiễm nơi hình sắc, khi tai nghe âm thanh, chẳng nhiễm nơi âm thanh, như vậy đều là giải thoát. Mắt không trói buộc vào hình sắc thì mắt là cửa mở đạo thiền. Tai không trói buộc vào âm thanh thì tai là cửa mở đạo thiền.

Nói tóm lại, thấy cái tánh thật của hình sắc thì lúc nào cũng giải thoát. Thấy cái tướng của hình sắc thì lúc nào cũng là trói buộc. Không bị phiền não trói buộc, liền gọi là giải thoát, ngoài ra không có giải thoát nào khác.

Người khéo quán xét hình sắc thì hình sắc chẳng sinh nơi tâm, tâm chẳng sinh nơi hình sắc, nên hình sắc với tâm cùng thanh tịnh. Khi không có vọng tưởng thì mỗi tâm là một cõi Phật. Khi có vọng tưởng thì mỗi tâm là một địa ngục. Chúng sanh tạo thành vọng tưởng, lấy tâm sinh tâm nên thường ở trong địa ngục. Bồ Tát quán xét thấy rõ vọng tưởng, không lấy tâm sinh tâm nên thường ở trong cõi Phật. Nếu không lấy tâm sinh tâm thì tâm nào cũng vào cõi không, niệm nào cũng về cõi tĩnh, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Nếu lấy tâm sinh tâm thì tâm nào cũng không tĩnh lặng, niệm nào cũng về cõi động, từ địa ngục này trải qua địa ngục khác.

Nếu trong một niệm khởi tâm, liền có hai nghiệp lành dữ, có thiên đường địa ngục. Nếu trong một niệm không khởi tâm, liền không có hai nghiệp lành dữ, cũng không có thiên đường địa ngục.

Tự thể vốn chẳng phải có, chẳng phải không. Nơi người phàm tục là có, nơi bậc thánh là không. Bậc thánh nhân không có tâm ấy nên lòng dạ rỗng suốt, rộng bằng trời đất. Khi tâm được niết bàn tức không thấy có Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì tâm chính là Niết-bàn. Nếu ngoài tâm thấy có Niết-bàn, đó gọi là vướng mắc vào tà kiến.

Hết thảy phiền não đều là hạt giống Như Lai, vì do nơi phiền não mà được trí huệ. Nhưng chỉ có thể rằng phiền não sinh Như Lai, không thể nói rằng phiền não chính là Như Lai.

Vì thế nên thân tâm là đồng ruộng, phiền nãohạt giống, trí huệ là mầm chồi, Như Lai là lúa thóc. Phật tại trong tâm như trầm hương ở trong cây. Nếu phiền não dứt sạch thì Phật từ trong tâm mà hiển lộ. Nếu gỗ mục hết thì trầm hương từ trong cây mà lộ ra. Do đó biết rằng ngoài cây không có trầm hương, ngoài tâm không có Phật. Nếu ngoài cây có hương, tức là hương khác. Nếu ngoài tâm có Phật, tức là Phật khác.

Trong tâm có ba độc thì gọi là cõi dơ nhớp xấu ác. Trong tâm khôngba độc thì gọi là cõi nước thanh tịnh.

Kinh dạy rằng: “Nếu làm cho cõi nước không thanh tịnh, dơ nhớp xấu ác đầy dẫy, tất không thể có việc chư Phật Thế Tôn từ trong đó hiển lộ.”

Không thanh tịnh, dơ nhớp xấu ác tức là vô minh, ba độc. Chư Phật Thế Tôn tức là tâm thanh tịnh giác ngộ.

Hết thảy ngôn ngữ không gì không là pháp Phật. Nếu chỗ nói năng của mình thường là không thì nói suốt ngày mà vẫn là đạo. Nếu chỗ nói năng của mình thường là có thì lặng im suốt ngày mà vẫn không phải đạo. Cho nên đấng Như Lai lời nói chẳng nương theo im lặng, im lặng chẳng nương theo lời nói, lời nói không lìa im lặng. Hiểu thấu được chỗ nói và im này thì lúc nào cũng ở trong tam-muội. Lúc hiểu mà nói thì nói cũng giải thoát. Lúc không hiểu mà im lặng thì im lặng cũng trói buộc. Cho nên, nếu lời nói lìa khỏi tướng thì nói cũng gọi là giải thoát, im lặngvướng mắc nơi tướng thì im lặng cũng chính là trói buộc.

Tánh của văn tự vốn là giải thoát. Văn tự không thể tạo ra sự trói buộc, sự trói buộc tự đến tạo ra văn tự.

Pháp không có cao thấp. Nếu thấy có cao thấp tức chẳng phải pháp.

Chẳng phải pháp, ấy là cái bè. Đúng pháp, ấy là người tu. Người tu cưỡi trên bè ấy liền vượt qua chỗ chẳng phải pháp, tức được đúng pháp.

Nếu nói theo người thế tục thì có nam nữ, có sang hèn. Nếu nói theo đạo pháp thì không có nam nữ, sang hèn. Vì thế cho nên vị thiên nữ đã ngộ đạo mà không biến mất hình tướng nữ.

Xa Nặc rõ lẽ thật, Ninh Di nhận là hèn hạ, đó thảy đều là không có nam nữ sang hèn, chỉ do một tướng mà ra. Vị thiên nữ trong suốt mười hai năm cầu hình tướng nữ, rốt cùng chẳng được. Như vậy tức biết rằng trong suốt mười hai năm cầu hình tướng nam cũng chẳng thể được. Mười hai năm, đó là chỉ cho mười hai nhập.

Lìa tâm không có Phật, lìa Phật không có tâm. Cũng như lìa nước không có băng, lìa băng không có nước.

Nói lìa tâm không có Phật, chẳng phải là nói lìa xa cái tâm, chỉ dạy đừng vướng mắc vào cái tướng của tâm. Kinh dạy rằng: “Không thấy hình tướng, gọi là thấy Phật.” Đó là nói lìa cái tướng của tâm.

Nói lìa Phật không có tâm là nói Phật từ trong tâm hiển lộ. Tâm có thể sinh Phật, nên Phật từ tâm mà sinh, nhưng Phật lại chưa từng sinh tâm. Cũng như cá sinh ở nước, nước không thể sinh cá. Muốn thấy cá thì chưa thấy cá trước đã thấy nước. Muốn thấy Phật thì chưa thấy Phật trước đã thấy tâm. Như vậy thì biết rằng, khi thấy cá rồi không còn nước, khi thấy Phật rồi chẳng còn tâm. Nếu chẳng quên tâm, ấy là vẫn còn bị tâm mê hoặc. Nếu chẳng quên nước, ấy là vẫn còn bị nước làm mê.

Chúng sinh với Bồ-đề cũng ví như nước với băng. Bị ba độc nung đốt nên gọi là chúng sanh. Do ba pháp giải thoát mà được thanh tịnh nên gọi là Bồ-đề. Bị ba tháng mùa đông làm cho đông lại nên gọi là băng. Do ba tháng mùa hạ làm cho tan chảy nên gọi là nước. Nếu lìa bỏ băng, tức không có nước nào khác. Nếu lìa bỏ chúng sinh, tất không có Bồ-đề nào khác.

Nên biết rõ rằng tánh của băng tức là tánh của nước, tánh của nước tức là tánh của băng. Chúng sinh tức là Bồ-đề. Chúng sinh với Bồ-đề cùng chung một tánh, như ô đầu và phụ tử vốn cùng một nguồn gốc, chỉ do chế biến mà khác nhau. Mê và ngộ là cảnh giới khác nhau nên có hai tên gọi là chúng sinh và Bồ-đề. Rắn hóa thành rồng không đổi vảy, kẻ phàm biến thành bậc thánh vẫn không đổi mặt. Chỉ cần biết rằng, tâm thì trí huệ soi chiếu bên trong, thân thì giới luật tinh khiết bên ngoài.

Chúng sinh độ Phật, Phật độ chúng sanh, đó gọi là bình đẳng. Chúng sanh độ Phật, đó là phiền não sinh giác ngộ. Phật độ chúng sinh, đó là giác ngộ dứt trừ phiền não. Chẳng phải là không có phiền não, chẳng phải là không có giác ngộ. Cho nên biết rằng, không có phiền não thì chẳng lấy gì sinh ra giác ngộ. Không có giác ngộ thì không lấy gì dứt trừ phiền não. Nếu còn mê thì Phật độ chúng sinh, nếu ngộ rồi thì chúng sinh độ Phật. Vì sao vậy? Phật không tự thành, đều do chúng sinh độ thành.

Chư Phật xem vô minh như cha sinh, tham ái như mẹ đẻ. Vô minhtham ái đều là tên gọi khác của chúng sinh. Chúng sinh với vô minh cũng như bàn tay phải với bàn tay trái, thật không khác biệt.

Khi mê ở bên bờ này, khi ngộ ở bên bờ kia. Nếu rõ biết tâm không, chẳng nhìn thấy các hình tướng, liền lìa khỏi mê và ngộ. Đã lìa khỏi mê ngộ, cũng không có bờ bên kia. Như Lai không ở bờ bên này, cũng không ở bờ bên kia, cũng không ở giữa dòng.

Giữa dòng là hàng Tiểu thừa, bờ bên này là kẻ phàm tục, bờ bên kia là Bồ-đề.

Phật có ba thân: Hóa thân, Báo thânPháp thân. Nếu chúng sanh thường trồng căn lành, tức Hóa thân thiện, thường tu trí huệ tức Báo thân hiện, thường rõ biết pháp vô vi tức pháp thân hiện.

Bay khắp mười phương, tùy phương tiện mà cứu độ, đó là Hóa thân của Phật. Dứt trừ mê hoặc, tu tập pháp lành, thành đạo trên núi Tuyết, đó là Báo thân của Phật. Không nói, không dạy, vắng lặng thường trụ, đó là Pháp thân của Phật.

Như luận cho thấu lý thì một Phật còn không có, làm sao có ba thân? Nói ba thân chỉ là dựa theo trí người có bậc cao, bậc vừa, bậc thấp. Người thấp trí mê nơi việc tu phước, thấy có Hóa thân Phật. Người trung trí mê nơi việc dứt trừ phiền não, thấy có Báo thân Phật. Người cao trí mê nơi việc chứng đắc Bồ-đề, thấy có Pháp thân Phật.

Bậc có trí tuệ vượt trội hơn hết thì trong tâm soi chiếu vắng lặng tròn đầy, rõ biết tâm chính là Phật, chẳng dựa vào tâm để được Phật.

Do đó biết rằng ba thân cùng với muôn pháp đều không thể nắm giữ, không thể chỉ bày. Như thế tức là tâm giải thoát, thành tựu đạo lớn. Kinh dạy rằng: “Phật không thuyết pháp, không độ chúng sanh, không chứng Bồ-đề.” Là nói nghĩa như thế.

Chúng sanh tạo nghiệp, nghiệp tạo chúng sanh. Đời nay tạo nghiệp, đời sau chịu quả báo, chẳng bao giờ thoát được. Chỉ có bậc chí nhân ngay nơi thân này không tạo các nghiệp nên chẳng chịu quả báo. Kinh dạy rằng: “Không tạo các nghiệp tự nhiên đắc đạo.” Phải đâu là lời luống dối đó sao?

Người có thể tạo thành nghiệp, nghiệp không thể tạo thành người. Nếu người tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng sinh ra. Nếu người không tạo nghiệp thì nghiệp với người cùng diệt mất. Do đó mà biết rằng nghiệp là do người tạo, người là do nghiệp sinh. Nếu người không tạo nghiệp thì nghiệp không do người mà sinh. Cũng như người có thể mở rộng đạo, đạo không thể mở rộng người. Những người phàm tục đời nay thường xuyên tạo nghiệp lại mê lầm nói là không có quả báo, chẳng phải là khổ lắm sao!

Bằng như luận cho thấu lý thì tâm trước tạo, tâm sau nhận chịu, làm sao có lúc thoát được? Nếu như tâm trước không tạo thì tâm sau không phải nhận chịu, há có thể mê lầm mà thấy có nghiệp báo được sao?

Kinh dạy rằng: “Tuy tin là có Phật nhưng nói Phật tu khổ hạnh, đó gọi là tà kiến. Tuy tin là có Phật, nhưng nói Phật chịu quả báo ăn lúa ngựa, đó gọi là chưa đủ lòng tin, gọi là nhất-xiển-đề.

Hiểu rõ được pháp của bậc thánh thì gọi là thánh nhân. Hiểu pháp của thế tục thì gọi là phàm phu. Chỉ cần lìa bỏ pháp của thế tục, thành tựu pháp của bậc thánh thì phàm phu liền trở thành thánh nhân.

Những người ngu ở thế gian chỉ cầu được thánh nhân ở nơi xa xôi, chẳng tin rằng tâm trí huệ rõ biết chính là thánh nhân.

Kinh dạy rằng: “Trong đám người không có trí huệ, đừng giảng nói kinh này.” Đó là muốn nói việc tâm hiểu được pháp.

Người không có trí huệ không tin rằng chính tâm này hiểu được pháp sẽ thành thánh nhân, chỉ muốn cầu ở xa xôi, học ở bên ngoài, ưa mến hình tượng Phật giữa cõi không, cùng với những việc như ánh sáng, hình sắc, hương thơm... thảy đều rơi vào tà kiến, cuồng loạn đánh mất bản tâm.

Kinh dạy rằng: “Nếu thấy rằng các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai.” Tám vạn bốn ngàn pháp môn, thảy đều do một tâm này sinh khởi. Nếu tướng của tâm bên trong vắng lặng, đồng như hư không, liền lìa thoát được cội gốc của tám vạn bốn ngàn căn bệnh phiền não trong thân tâm

Kẻ phàm phu đang sống lo chết, vừa lo no đói, đều gọi là mê lầm lớn. Cho nên bậc chí nhân chẳng tính việc trước, chẳng lo việc sau, chẳng làm thay đổi việc hiện tại, lúc nào cũng quay về nơi đạo.
Đêm ngồi tụng kệ rằng:

Canh một đoan nghiêm ngồi kiết-già,
Tinh thần lặng chiếu, trải lòng xa.
Xưa nay sinh diệt không thực có,
Sao phải nhọc lòng diệt diệt sinh?
Muôn pháp thảy đều như ảo hóa,
Tự tánh vốn không, sao phải trừ?
Nếu rõ tánh tâm không hình tướng,
Vắng lặng sáng rõ tự như như.
Canh hai thần ngưng càng sáng lặng,
Tâm không nhớ tưởng, tính chân như.
Muôn hình vạn cảnh thảy về không,
Vướng mắc có không càng thêm bệnh.
Tánh pháp xưa nay chẳng có không,
Phàm tục mê lầm phân tà, chánh.
Nếu thường đúng pháp vô phân biệt,
Ai bảo phàm phu khác thánh nhân?
Canh ba tâm lặng đồng hư không,
Mười phương cõi pháp khắp biến thông.
Núi sông vách đá không ngăn ngại,
Thâu tóm vào trong thế giới đồng.
Tánh thật thế giới, chân như tánh,
Không cả tánh thật, hàm chứa hết.
Chẳng riêng chư Phật được như thế,
Hết thảy hữu tình đều không khác.
Canh tư chẳng còn diệt với sinh,
Cõi pháp lặng bình như hư không.
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng khởi diệt,
Chẳng có, chẳng không, chẳng sáng tối.
Chẳng thấy các pháp, được mắt Phật,
Chẳng có danh xưng, được Phật danh.
Chỉ người giác ngộ mới thật hiểu,
Kẻ mê như người mù đi quanh!
Canh năm trí huệ sáng vô biên,
Trải ba ngàn cõi không động niệm.
Muốn thấy chân như, bình đẳng tánh,
Nơi việc trước mắt đừng sinh tâm.
Lý sâu mầu nhiệm không lường hết,
Chớ cố đuổi tìm chỉ nhọc công.
Tâm không một niệm biết thật cầu,
Nếu khởi tâm cầu, thật chưa biết!
Có bài tụng chân tánh rằng:
Chân tánh xưa nay vốn nhiệm mầu,
Dứt lìa hết thảy gốc tình sâu.
Quán chiếu lẽ không quên diệt sạch,
Chân thân tỏa sáng lặng tròn đầy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18391)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19862)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19566)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33457)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34536)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54557)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37759)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21160)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17915)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63708)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17420)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49708)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16880)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16397)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14504)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22497)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57021)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13878)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29039)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33353)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38414)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31263)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13929)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14641)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14312)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14831)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19217)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13832)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12675)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30413)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11844)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30687)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29414)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30607)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31230)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37127)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32256)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23685)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12240)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14237)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14105)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 33993)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27741)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12462)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28661)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29384)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12407)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29237)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28042)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25690)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26054)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22288)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33160)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22464)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34498)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27371)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28405)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant