Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 07 - Tâm Sau Khi Chết

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10566)
Bài 07 - Tâm Sau Khi Chết

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 7]
Tâm Sau Khi Chết

Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

Nếu tôi nói có một ngã,
Ông sẽ nghĩ nó thường hằng
Nếu tôi nói không có một ngã
Ông sẽ nghĩ rằng vào lúc chết
Nó sẽ biến mất hoàn toàn.

Kinh Tương Ưng Bộ (Samyuttanikaya)

Một đời hoặc nhiều đời?

Tất cả những truyền thống tâm linhtôn giáo đều đồng ý về vài loại tồn tại vượt ngoài đời sống này, và tất cả chúng đều sửa soạn chúng ta cho cái vị lai đó. Nếu sau chết chẳng có sự sự vật vật gì cả, nếu tồn tại của chúng ta bị giới hạn bởi đời người này, chúng ta có thể thoả mãn với tri thức uyên bác và những hoạt động thế tục. Một sự tu tập tâm linh, bất cứ là gì, thì chắc hẳn chẳng cần đến.

Cái ý tưởng rằng cái chết là một sự chấm dứt hoàn toàn theo sau bởi cái hoàn toàn chẳng-có-gì-cả là một sản phẩm của một cái tâm cực kì hẹp hòi.

Trong khi những tôn giáo có thể đồng ý tổng quát về tồn tại của một đời sau, nhiều truyền thống có những toàn cảnh khách quan nổi bật riêng biệt về bản chất của cái đời sau đó. Vài truyền thống dạy rằng sau khi chết không có nhiều đời nữa, nhưng có một đời sống vĩnh cửu, trong khi Pháp dạy rằng sau cái chết còn có nhiều đời nữa cho tới khi viên giác.

Ki tô giáo đưa ra một trình bày tổng quát về đời sau, dạy rằng có đời sống sau khi chết và rằng những hoàn cảnh của đời sống đó tùy thuộc vào đường lối bạn sống đời sống hiện nay của bạn. Đối với một người Ki tô giáo, đức hạnh dẫn đến thiên đường, và tội lỗi dẫn đến địa ngục. Đó là ý tưởng căn bản.

Pháp, theo hướng khác, dạy sự khả hữu của nhiều đời vị lai, rằng những hành động tiêu cực trong đời này dẫn đến đau thương trong những đời vị lai trong khi những hành động tích cực dẫn đến những đời sống hạnh phúc vị laicuối cùng dẫn tới viên giác.

Hai truyền thống này hoà hợp tốt đẹp về nhu cầu buông bỏ những cái tiêu cực hoặc tổn hại và thâu nhập thực hiện những cái tích cực; cả hai cũng đồng ý về những kết quả của những hành động tiêu cựctích cực. Không có gì mâu thuẫn giữa hai truyền thống. Sự khác biệt là rằng Ki tô giáo cống hiến một bản trình bày vắn tắt hơn, trong khi Phật giáo cống hiến một trình bày nhiều chi tiết hơn.

Chết và Tính tương tục của Tâm

Hư không thì vượt ngoài thời gian; chúng ta không thể nói rằng hư không bắt đầu tồn tại vào một điểm đã cho trong thời gian hoặc nó sẽ ngừng tồn tại sau một số lượng thời gian đã qua đi. Tương tự, tính không của tâm thì vượt ngoài thời gian; tâm về mặt bản chất căn bản thì phi thời gian. Do bản chất, tâm thì vô thủy vô chung, vượt ngoài những sinh những tử. Sinh tử hiện hữu chỉ ở mức độ những huyễn tượng của tâm.

Khi tâm không nhận biết sáng tỏ bản chất của nó và vì thế bị vướng mắc trong lối mòn của những huyễn tượng, nó chuyển cư xuyên cõi vô tận trong huyễn tượng, từ đời sống này tới đời sống kia. Bị phan duyên bởi vô minh và nghiệp, chúng ta phải sống cho hết vô số cuộc đời trước đây.Trong tương lai, chúng ta bị bắt buộc phải sống cho hết nhiều cuộc đời nữa. Tâm chuyển cư xuyên cõi từ đời sóng này tới đời sống khác, từ một huyễn tượng này tới huyễn tượng kế tiếp – suốt bao lâu tâm chưa đạt tới viên giác, sự tỉnh thức của một vị phật hoặc của một đại bồ tát.

Trong trạng thái hiện tại, chúng ta không thể nhận biết được những đời trước của chúng ta; chúng ta không biết chúng ta từ đâu đến, nơi chúng ta sẽ đi, hoặc thân phậnchúng ta sẽ được tái sinh vào. Trong suốt thời gian này, cái mà chúng ta trải nghiệm thì thực ra chỉ là một sự chuyển tiếp, một lối vào-trước-ra-sau (passage) giữa vô tận của những đời sống khả hữu và những thế giới vượt ngoài quan niệm của chúng ta.

________________________________________

Cảm đề về câu cuối cùng của pháp thoại ghi trên, và

để nhớ đến Nguyễn Du (1765-1820)

“ Con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Những kẻ vào trước, ra sau
Ai cho kén chọn, vàng thau tại mình

________________________________________

Chú thích

Bài --Kalu Rinpoche. Nhị Đế--trên Hoavouu – là bài Tâm diệu minh thường trụ [Bài 6]

1. Pháp thế gian và pháp tâm linh

Kalu Rinpoche mở đầu bài diễn giảng 5 ngày “ Tịch Tĩnh Tâm Ý và Viên Giác xuyên qua Thiền Định” (Mental Peace and Enlightenment through Meditation) tại Tibet House, New Dehli, India, 1986, như sau:

“Tôi rất hạnh phúc thấy nhiều người từ những nước khác nhau hội hiệp ở đây ngày hôm nay với ý nguyện lắng nghe Pháp. Khi chúng ta nói về Pháp chúng ta có thể định hướng tới hai sự vật khác nhau: pháp thế gian và pháp tâm linh. Bất cứ những hoạt động nào được làm ra để bảo đảm cho an sinh và hạnh phúc của chính mình trong đời sống này là pháp thế gian; pháp thế gian ngày nay có một mức độ cao của sự phát triển trong tất cả các nước trên thế giới. Còn như đối với pháp tâm linh, mục đích của nó là mang đến đời sống này an tĩnh nội tâmhạnh phúc nhiều hơn nữa, và một cách tối hậu dẫn bạn hướng đến sự kiểm soát hoàn toàn đối với tâm của chính bạn và cuối cùng tới trạng thái phật, vô thượng giác.

2. Lược trích từ-- Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch. Xb. 2000. 7374 trang + quyển Mục lục.

Hư không. Skt.akasa

1. Hư không

Chỉ cho pháp vô vi thanh tịnh, không bị chướng ngại.

2. Hư không

Khoảng không bao la gồm có năm nghĩa: Trùm khắp, thường hằng, không bị ngăn ngại, không phân biệt, dung nạp hết thảy muôn vật.

Còn theo Tông kính lục quyển 6 thì Hư không có 10 nghĩa:

Không chướng ngại, cùng khắp, bình đẳng, rộng lớn, vô tướng, thanh tịnh, bất động, hữu không, không không, vô đắc.

3. Hư không.

Tên khác của Không giới. Chỉ cho khoảng không gian, nơi tồn tại của tất cả các pháp, 1 trong 6 giới.

Hữu Không.

Đối lại: Không Hữu.

Hữu tức là Không (chân không), gọi là Hữu không;

Không tức là Hữu (diệu hữu) thì gọi là Không hữu.

Hữu chỉ cho tướng muôn vật trong thế giới hiện tượng;

Không chỉ cho thực thể tồn tại của tất cả hiện tượng.

Về mối quan hệ giữa Hữu và Không thì luận Bất chân không trong Triệu Luận nói rằng tuy có mà không tức “ phi hữu”, tuy không mà có tức “phi vô”.

Hữu tình. Skt. sattva.

Cũng gọi hữu thức, hữu linh. Dịch cũ: chúng sinh.

Diệt

1. Diệt.Skt. Vyupasama.

Gọi tắt của tịch diệt, hàm ý là Niết bàn.Thoát khỏi sống chết, tiến vào cảnh giới tịch lặng vô vi, gọi là nhập diệt.

2. Diệt. Skt. Anityata.

Hàm ý là diệt hết. Cũng gọi diệt tướng, Vô thường. Một trong bốn tướng. Nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều có tính chất hoại diệt trong khoảng sát na. Cái chết của hữu tình cũng gọi là diệt.

3. Diệt. Một trong bốn đế. Gọi tắt của Diệt Đế.

Tịch Diệt. Skt. Vyupasama.

Gọi tắt: Diệt. Vượt thoát sinh tử, tiến vào cảnh giới vắng lặng, vô vi. Cảnh giới này xa lià cõi mê hoặc, được an vui, nên gọi là Tịch diệt vi lạc.

Kinh Tăng nhất a hàm quyển 23 (đại 2, 672 trung) nói:

“ Tất cả hành vô thường

Có sinh ắt có diệt

Chẳng sinh thì chẳng diệt

Diệt này là vui nhất”

Vô sinh.

Cũng gọi Vô khởi. Đồng nghĩa:Vô sinh diệt, Vô sinh vô diệt.

Tất cả các pháp tồn tại đều không có thực thể, là không, cho nên không có sinh diệt biến hoá. Nhưng hàng phàm phu do không biết lí vô sinh này, nên khởi phiền não sinh diệt mà bị trôi lăn trong dòng sống chết; nếu nương vào các kinh luận mà quán xét lí vô sinh thì phá trừ được phiền não sinh diệt.

Vô thường kệ

Chỉ cho bài kệ nói về lí vô thường của thế giới.

Kinh Đại bát niết bàn quyển hạ (Đại 1, 204 hạ) nói:

“Chư hành vô thường
Thì sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc”
“ Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui”

Bài kệ này giải thích rõ muôn vật trong thế gian không một vật gì là thường trụ không hoại diệt; hễ có sinh thì hẳn phải có diệt; bởi thế chỉ có cách thoát khỏi thế giới sinh diệt này mới đạt đến chân lí vắng lặng.

Vô trụ xứ niết bàn. Skt.Apratisthita-nirvana.

Cũng gọi Vô trụ niết bàn.

Một trong 4 thứ Niết bàn của tông Duy thức. Tức Niết bàn không trụ trong sinh tử, cũng không trụ nơi Niết bàn, gọi là Vô trụ xứ niết bàn. Bồ tát vì lòng đại bi thương xót hữu tình nên không trụ nơi Niết bàn; lại dùng Bát nhã cứu độ hữu tình, cho nên không trụ trong sinh tử, đó là Vô trụ xứ niết bàn, tức chỉ cho Niết bàn của Bồ tát.

_______________________

Kinh Lăng già giảng vô sinh,vô nhị.

  •  Đức Phật giảng về không có tự tính và pháp tu tập vô tự tính trong kinh Lăng Già (trích Lăng Già Nhập Đại Thừa Kinh, bản dịch Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn trang 164-165):

[76] Lại nữa, này Mahàmati, không phải các sự vật là không được sinh ra, mà chúng không được sinh ra từ chính chúng, trừ phi chúng được quán sát trong trạng thái Tam-ma-địa, đấy là ý nghĩa của “các pháp đều vô sinh”.

Này Mahàmati, theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì không có tự tínhvô sinh. Tất cả các pháp khôngtự tính nghĩa là có một sự trở thành luôn luôn có và liên tục, một sự thay đổi từng sát na từ trạng thái hiện hữu này sang trạng thái hiện hữu khác; này Mahàmati, thế thì tất cả các pháp đều không có tự tính. Đấy gọi là tất cả các pháp đều không có tự tính.

Lại nữa, này Mahàmati, vô nhị là gì? Này Mahàmati, đấy nghĩa là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng là những biểu từ tương đối và cái này không độc lập đối với cái kia; như Niết-bàn và luân hồi, tất cả các sự vật là không-hai, không có Niết-bàn ngoài nơi có luân hồi; không có luân hồi ngoài nơi có Niết-bàn; vì cái điều kiện hiện hữu không có đặc tính độc lập đối với nhau. Do đó mà bảo rằng tất cả các pháp là vô nhị như Niết-bàn và luân hồi vậy. Vì vậy, này Mahàmati, ông phải tu tập ( thể nghiệm ) cái không, vô sinh, vô nhịvô tự tánh.

[ĐHP trích. Mahamati: Đại Huệ]

_________________________

Kalu Rinpoche

Mind After Death

If I say there is a self, you will think it’s permanent.
If I say there isn’t a self, you will think that at death it disappears completely.
Samyuttanikaya.

One Life or Many Lives?

All spiritual and religious traditions agree on some type of experience beyond this life, and all of them prepare us for that future. If after death there was nothing, if our existence was limited to this lifetime, we could be satisfied with wordly knowledge and activities. A spiritual practice, no matter what it was , would be unnecessary.

The idea that death is a complete and followed by sheer nothingness is the product of an extremely narrow mind.

While religions might be in general agreement about the existence of an afterlife, the various traditions do have distinct perspectives about the nature of that afterlife. Some teach that death is not followed by more lifetimes, but by one eternal life, while Dharma teaches that death is followed by many lifetimes until enlightenment.

Christianity, for example, offers a general presentation of the afterlife, teaching that there is life after death and that the conditions of that life depend upon the way you live your present life. For a Christian, virtue leads to heaven and sinfulness leads to hell.That’s the basic idea.

Dharma, on the other hand, teaches the possibility of many future lives, that negative actions in this life lead to suffering in future lives while positive actions lead to happy future lives and finally to enlightenment.

These two traditions are in perfect agreement about the need to abandon the negative or harmful and adopt the positive; they agree on the results of negative and positive actions. There is no contradiction between them. The difference is that Christianity offers a briefer presentation, while Buddhism offers a more detail one.

Death and the Continuity of Mind

Space is beyond time; we can’t say that space began to exist at a given point in time or that it will cease to exist after a certain amount of time has passed. Similarly, the mind’ s emptiness is beyond time; mind is essentially atemporal. By nature, mind is eternal, beyond births and deaths. These exist only at the level of the mind’s illusion.

When the mind does not know its nature and is therefore caught up in the path of illusions, it transmigrates endlessly in illusion, from life to life. Conditioned by ignorance and karma, we have had to live out innumerable previous lives. In the future, we will be forced to live out many more.The mind transmigrates from life to life, from one illusion to the next – as long as it has not attained enlightenment, the awakening of a buddha or great bodhisattva.

In our present state, we cannot recognize our previous lives; we don’t know where we came from, where we’ll go, or what condition we’ll be reborn into. Meanwhile, what we experience is actually only a transition, one passage among an infinity of possible lives and worlds beyond our conception.

_____________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23041)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26456)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12787)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29579)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27784)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25990)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15066)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16274)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22792)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14626)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12668)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18943)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14782)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43919)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47562)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13687)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14620)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12555)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40465)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43478)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14448)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14158)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39764)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13895)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37371)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40085)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13815)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37278)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11782)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22571)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12523)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12578)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13075)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14849)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12477)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11975)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11944)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12394)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30717)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31924)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35440)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27830)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11489)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31771)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27125)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24183)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30906)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27127)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28169)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23281)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23601)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21618)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26325)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13049)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21938)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14140)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 38059)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32133)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28585)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19628)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant