Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03. Giáo huấn dẫn nhập

10 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 7981)
03. Giáo huấn dẫn nhập

GIÁO HUẤN DAKINI

Do YESHE TSOGYAL ghi lại và chôn dấu
Phát lộ bởi: NYANG RAL NYIMA OSER và SANGYE LINGPA

GIÁO HUẤN DẪN NHẬP

Trong thời gianthế giới chúng ta đang sống, một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Tương tự, mỗi vị Phật này sẽ có một ngàn Guru Rinpoche thực hiện những hoạt động của các Ngài. Trong thời hiện tại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một thân lưu xuất trong thân người như vậy là Đức Padmasambhava, Liên Hoa Sanh. Người ta nói rằng trong tiểu sử, Ngài tự nhiên sinh ra từ một hoa sen ở trong một hồ mà không có cha mẹ. Sinh ra với thân người một cách kỳ diệu như vậy, Ngài được phú cho đại thần lực có khả năng hàng phục không chỉ nhân loại mà còn những tinh linh và những loại phi nhân khác. Ngài sống trong một thời gian dài. Ngài ở Ấn Độ khoảng một ngàn năm và sau đó ở Tây Tạng năm mươi năm. Khi sắp rời Tây Tạng Ngài được hai mươi lăm đệ tử chính và nhà vua đưa tiễn. Tại biên giới Nepal Ngài được những dakini của bốn bộ hộ tống trên một con ngựa gọi là Mahabala. Con ngựa thần thoại này bay lên trời, để lại những đệ tử nhìn hình ảnh Ngài Guru Rinpoche nhỏ dần rồi biến mất.

Theo truyện, Đức Padmasambhava xuống Bồ Đề Đạo Tràng và ở lại đó một thời gian. Sau đó đến tịnh thổ của Ngài được biết là Sangdok Palri, Núi Huy Hoàng Màu Đồng. Về vật chất, đó là một hòn đảo rộng lớn, một loại bán châu lục, ở ngoài biển về hướng Tây Nam của Bồ Đề Đạo Tràng. Đảo có một số tầng, chỗ thấp nhất là nơi cư trú của la sát. Theo tiên tri của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, loài quỷ ăn thịt người này sẽ xâm nhập thế gian trong một giai đoạn lịch sử sau này vào khoảng thời gian tuổi thọ trung bình của con người là hai mươi. Tạo ra một hiểm họa lớn, loài la sát sẽ khuất phục và tiêu diệt tất cả nhân loại. Đức Phật cũng tiên tri rằng Ngài Padmashambhava sẽ đến châu lục này và chiến thắng loài la sát. Guru Rinpoche đã ứng với lời tiên tri.

Ngọn núi chính trên đảo màu đồng này đi sâu xuống biển tới cõi Long cung. Đỉnh núi đâm thủng bầu trời lên tới thế giới Phạm Thiên của cõi sắc giới. Trên đỉnh núi là một cõi Phật ba tầng xuất hiện kỳ diệu. Tầng trên cùng là pháp thân lưu xuất của Guru Rinpoche, là Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus), tầng giữa là tướng báo thân của Guru Rinpoche, là Đức Avalokitesvhara (Quán Tự Tại), và tầng dưới cùng là tướng hoá thân của chính Guru Rinpoche bao quanh bởi tám hiện thân. Guru Rinpoche là tâm lưu xuất của Phật A Di Đà, ngữ lưu xuất của Quán Tự Tại và thân lưu xuất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi hiện thân đến thế gian này Ngài xuất hiện trước tiên trong cõi báo thân như năm gia đình Thotreng Tsal, sau đó là tám rồi mười hai hiện thân, và cuối cùngvô số thân lưu xuất.

Trước lúc rời Tây Tạng, Guru Rinpoche tiên tri nhiều việc và đem chôn dấu nhiều giáo huấn để tương lai sau này phát hiện. Ngài ban phước cho những đệ tử thân cận được bất khả phân với Ngài. Trong tương lai những thân tái sinh của họ sẽ phát hiện những giáo huấn chôn dấu. Được phú cho đại thần lực kỳ diệu như chính đức Guru Rinpoche, họ có thể bay trong bầu trời, di chuyển tự do qua những vật thể cứng, giải nghĩachướng ngại kinh điển và luận thư cũng như ý nghĩa những tantra. Đặc biệt là Guru Rinpoche tiên tri sự xuất hiện của 108 vị đại terton, những bậc khai mật tạng. Vì sự thay đổi thăng trầm trong lịch sử thế giới, mỗi vị terton sẽ xuất hiện vào thời điểm đã định để giúp chúng sanh đối mặt với khó khăn. Nhận biết được những khó khăn trong tương lai, Guru Rinpoche chôn dấu những thực hành đặc biệt nhất là khế hợp với thời điểm được phát hiện. Khi các terton khám phá ra những terma thì lúc đó sẽ có một giáo huấn hoàn toàn mới, khế lý, khế cơ và có ý nghĩa trong thời gianhoàn cảnh đặc biệt đó. Ví dụ giống như chúng ta chuẩn bị thực phẩm tươi mới để không bị bệnh, tương tự những giáo huấn terma được phú cho những phẩm tính rất đặc biệt. Một phẩm tính là những terma có dòng truyền vắn tắt sẽ không bị gián đoạn vì bất kỳ vi phạm hoặc đứt samaya; ngoài ra, những terma cũng không bị người khác tự ý thêm vào. Những giáo huấn ẩn tàng bắt nguồn trực tiếp từ Đức Guru Rinpoche và được phát hiện bởi những đệ tử của Ngài trong những tái sanh tương lai; sau đó được phổ biến để nhanh chóng thực hành.

Tóm lại, để lặp lại và phát triển, phẩm tính đặc biệt của những giáo huấn terma do Guru Rinpoche chôn dấu cung cấp một thành tựu thích hợp cho mỗi thế hệ, từng thời điểm và cá nhân gặp được. Mỗi vị terton phát hiện những giáo huấn mới cho những người được định trước thực hành. Những terma cũ có thể bị tì vết do đứt samaya, khiến trì hỗn những dấu hiệu thành tựu. Vì vậy, những terma mới có ân phước lớn hơn nên nhanh thành tựu. Hơn nữa, đa số mọi người kể cả người Tây Tạng đều thích những gì mới lạ. Những terma mới có vẻ hấp dẫn hơn! Người Tây Tạng ít tin tưởng vào các terma cũ, nên kết quả của thực hành bị trì hỗn. Niềm tin lớn hơn và tin tưởng vào những terma mới khiến siêng năng thực hành nhiều hơn, nên kết quả sẽ nhanh hơn. Đó là những nhân tố trùng khớp để những terma mới xuất hiện. Nếu không thì một terma cho mỗi một trong Ba Gốc Guru (Đạo sư), Yidam (Bổn Tôn) và Dakini là đủ. Nhưng người ta thường thích những gì mới lạ; một vị terton mới phát hiện một giáo huấn terma mới gây ra niềm hoan hỷ to lớn. Điều này là một trong những phương tiện thiện xảo của Guru Rinpoche.

Yeshe Tsoygal là một trong năm lưu xuất của Vajra Yogini và, trong cốt tủy cũng chính là biểu hiện của Đức Guru Rinpoche. Bà xuất hiện để hỗ trợ Guru Rinpoche trong việc truyền bá Kim Cương Thừa, nhất là những giáo huấn terma trong xứ tuyết Tây Tạng.

Nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, từ dakini có nghĩa “người an trụ trong hư không”, một vị trời không cần đi trên mặt đất. Có nhiều loại dakini khác nhau: dkini trí tuệ, dakini hành động, và dakini thế gian. Dakini trí tuệ thực sự là tánh hư không của sự tỉnh giác sáng ngời. Sự nhận biết là khía cạnh nam, trong khi trong nhận thức của chúng ta là phẩm tính nữ. Như vậy bà mẹ vĩ đại của pháp thân là nền tảng của tất cả dakini.

Trong thực tế, nền tảng của tất cả Bổn Tôn nam là pháp thân Phật Phổ Hiền (Samantabhadra) và nền tảng của mọi Bổn Tôn nữ là Samantabhadri. Samantabhadra là nền tảng của tất cả nhận thức và Samantabhadri là tánh hư không trong tất cả nhận thức đó. Ngoài ra, Samantabhadri được gọi là nền tảng của sự lưu xuất, vị nữ Phật đại trí. Vajra Varahi là một báo thân lưu xuất của trí tuệ, như năm vị Phật nữ Dhatvishvari, Mamaki, Buddhalochana, Pandaravasini, và Samayatara, là những vị consort của năm vị Phật nam. Trên bình diện hóa thân lưu xuất của trí tuệ là Đức Arya Tara. Đây là những dakini trí tuệ của ba thân.

Thêm vào các dakini trí tuệ, còn có những dakini thực hiện những hoạt động giác ngộ vì lợi ích của mọi chúng sanh, những dakini samaya (giới nguyện) giám sát cẩn thận những cam kết tantric samaya của chúng ta. Cũng có những dakini sống trong những thánh địa chính và phụ trong thế gian này như: ba mươi hai thánh địa chính và hai mươi bốn thung lũng thiêng liêng phụ, bao gồm tám đại mộ địa, được biết là sáu mươi bốn nơi linh thiêng mà sáu mươi bốn vị daka và dakini cư trú. Tương ứng với sáu mươi bốn địa điểm bên ngoài, trên bình diện vi tế, chư daka và dakini cũng trụ trong sáu mươi bốn trung tâm trên thân thể chúng ta như tinh túy thanh tịnh của các kinh mạch, năng lượng, và tinh chất.

Yeshe Tsoygal cũng là một lưu xuất của Đức Arya Tara. Arya Tara là một lưu xuất của Vajra Varahi. Nền tảng lưu xuất của Vajra Varahi là Prajnaparamita (Trí tuệ) và Samantabhadri. Ba thân nam tương ứng là Phật Phổ Hiền, Phật Kim Cương Trì và Phật Thích Ca Mâu Ni. Thật hoàn toàn sai lầm khi nói chỉ có phái nam mới thành Phật còn phụ nữ thì không, vì cả hai Prajnaparamita và Samantabhadri đều là Phật. Năm phương diện của Vajra Varahi cũng là năm vị Phật toàn giác. Đức Arya Tara xuất hiện trong thân tướng của một bồ tát ở địa thứ mười, nhưng trong thực tế Bà cũng là một vị Phật toàn giác. Ngoài ra, tám nữ bồ tát trong bốn mươi hai Bổn Tôn hiền minh cũng là những vị Phật. Thuộc tính nam, nữ không phải là quyết định tối hậu. Tám nam và nữ bồ tát trong số những Bổn Tôn hiền minh trong trạng thái trung ấm về cốt lõi giống hệt như tám thiên nữ mamo và tám yogini, tất cả phái nữ đều thuộc về Bổn Tôn phẫn nộ. Những vị Phật nam xuất hiện trong tướng người nữ, và ngược lại. Các dakini có thể xuất hiện trong nhiều cách và hình tướng khác nhau, một số có tướng phẫn nộ hay ghê sợ để ngăn chận những tư duynhận thức sai lạc.

Cuối cùng khi thực hành Giáo Pháp, thật là tốt khi nhớ lại phẩm tính đặc biệt của hệ thống Kim Cương Thừa theo truyền thống cựu dịch và nhất là giáo huấn Dzogchen là “nâng cao hành vi đạo đức trong lúc hạ mình khiêm tốn trong quan điểm.” Tuyên thuyết này của Guru Rinpoche là một quyết định quan trọng. Nếu chúng ta bắt đầu hành động theo quan niệm cao, thì giống như điên hay loạn trí. Nếu chỉ giữ quan điểm của những thừa thấp chúng ta sẽ không bao giờ gặp cơ hội giải thoát. Quan điểm của một Thanh văn hay Phật Độc giác không mang lại giải thoát trong một kiếp mà phải trải qua sau ba a tăng kỳ kiếp (không thể tính đếm) mới được giải thoát. Chúng ta phải hành động theo những thừa thấp trong lúc vẫn giữ quan điểm của những tantra nội.

TULKU URGYEN RINPOCHE 
Động Asura 1989

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23102)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26515)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12838)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29636)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27852)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26022)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15090)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16288)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22817)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14651)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12686)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18969)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14820)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43964)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47598)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13704)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14655)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12567)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40517)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43522)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14463)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14182)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39813)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13913)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37420)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40132)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13840)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37308)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11806)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22609)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12551)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12609)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13102)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14868)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12491)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 12005)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11982)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12414)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30773)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31983)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35494)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27879)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11517)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31818)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27173)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24212)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30962)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27155)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28223)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23334)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23669)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21650)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26369)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13073)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21996)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14168)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 38119)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32191)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28630)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19655)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant