Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

07 Tháng Tư 202119:29(Xem: 2090)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol (1872–1952)

Nyoshul Khen Rinpoche[1]
  Pema Jyana


tieu su

Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje[2]đạo sư du mục[3] Choying Dorje từ Yukhok. Ngài đã sinh ra trong vùng được biết đến là Yukhok, một thung lũng gần rặng Drida Zalmo Gang ở miền Đông Tây Tạng. Ngài nói rằng từ thuở nhỏ, hành vi của Ngài thật hăng hái nhưng cũng thất thường. Phóng túng và thiếu kỷ luật, Ngài làm buồn phiền những vị mà tâm bất tịnh của họ nhìn nhận Ngài một cách sai lầm. Khoảng mười lăm tuổi, Ngài từ bỏ quê hương để gặp gỡ đạo sư Sangye Palden ở Gyangkhang Ritro, ẩn thất xa xôi của Tu viện Lhatse ở Hạ Ser. Những giáo lý của vị đạo sư này nhấn mạnh tính cần thiết của việc đạt được sự hiểu rốt ráo rằng vạn pháp vốn là Không. Ngài Choying Dorje thấu triệt điều này đúng như ý định của đạo sư và nhờ đó, đã chứng ngộ tri kiến tính Không. Trong một khoảng thời gian dài sau đó, Ngài lang thang quanh vùng lân cận của Tu viện Lhatse, thách những vị sống tại Phật học viện (Shedra) tranh luận các câu hỏi như “Các ông đang thiền định về điều gì? Các ông nói ‘tính Không’ là sao?”.

Sau đấy, Đức Sangye Palden từ Gyangkhang hướng dẫn Ngài Choying Rangdrol tìm kiếm Chagkong Terchen. Ngài đã khởi hànhcuối cùng đến được khu trại của vị này. Trong một khoảng thời gian, Ngài đã không được diện kiến đạo sư và Ngài cảm thấy khá nản lòng. Tuy nhiên, cuối cùng thì Ngài cũng được diện kiến Terchen Rinpoche, vị đang ngồi điềm tĩnh trên một cao nguyên vắng vẻ.

Đạo sư hỏi, “Con đến từ đâu?”. Ngài Choying Rangdrol lịch thiệp kể về nơi sinh và quá trình của bản thân.

“Vậy con hiểu được gì?”.

“Thưa Ngài, con hiểu tính Không”.

“Tính Không là gì? Nó ở đâu?”.

Ngài đáp, “Vạn pháp là Không”.

Đạo sư tóm lấy một con dao và khua. Ngài quở mắng, “Biến ngay!”. Sau khi quán chiếu một chút, Ngài bổ sung, “Thầy của ngươi từ các đời quá khứ là Adzom Drukpa! Hãy đi gặp Ngài!”. Ngay khi Ngài Choying Rangdrol nghe được danh hiệu của Đức Adzom Drukpa, niềm tin khiến Ngài nổi da gà và Ngài cảm thấy sự kính trọng và lòng sùng mộ vô biên. Với chút nhu yếu từ Terchen Rinpoche, Ngài lập tức khởi hành. Sau một hành trình dài và gian khổ, Ngài cuối cùng đến được khu trại của Đức Adzom Drukpa. Ngay khi đến trước sự hiện diện của đạo sư, sự kính trọng và sùng mộ vô biên khởi lên trong Ngài. Các kinh nghiệm thiền địnhchứng ngộ ló rạng trong tâm và Ngài sống tại khu trại trong thời gian dài. Trên nền tảng kinh nghiệm của bản thân, Đức Adzom Drukpa tỉ mỉ trao cho Ngài các trao truyền về mọi Mật điển, luận giải giải thíchchỉ dẫn cốt tủy cho các giáo lý Nyingtik bí mật của Đại Viên Mãn tự nhiên để Ngài Choying Rangdrol đạt được sự hiểu rốt ráo về các điểm then chốt riêng biệt của chúng. Đạo sư giới thiệu trực tiếp cho Ngài ý định giác ngộ của việc nhìn nhận các hình tướng tự nhiên hiển bày của giác tính không chút thành kiến. Trong ba năm, theo những chỉ dẫn của đạo sư, Ngài tiến hành thực hành rốt ráo tập trung vào tinh túy, dấn thân trên con đường theo đuổi chỉ giác tính thanh tịnh cho đến khi đạt được mức độ tự tin chân chính về sự chứng ngộ của bản thân về Đại Viên Mãn tự nhiên. Cực kỳ hài lòng, đạo sư trao cho Ngài tất cả các chỉ dẫn, như bình này đổ đầy bình khác. Ngài Choying Rangdrol như thế được trao quyền là vị trì giữ dòng truyền thừa rốt ráo của sự chứng ngộ.

Sau đấy, đạo sư bảo Ngài thiền định ở một nơi xa xôi gọi là Renang ở Hạ Ser, từ bỏ mọi bận tâm thế tục và giương cao cờ chiến thắng của sự thực hành. Tuân theo những mệnh lệnh này, Ngài Choying Rangdrol đã sống hoàn toàn nhờ cây tầm ma và nước và tiến hành những khổ tu nghiêm ngặt như những gì được miêu tả trong tiểu sử của Đức Milarepa. Sau khi thiền định trong ba năm, Ngài trực tiếp trải nghiệm ý định giác ngộ không thành kiến của Pháp thân, Đại Viên Mãn tự nhiên. Ngài trở về gặp đạo sưcúng dường một miêu tả về sự chứng ngộ của bản thân. Một lần nữa quá đỗi hoan hỷ, Đức Adzom Drukpa bảo rằng, “Bây giờ là lúc con dẫn dắt những vị con cần điều phục. Hãy trở về quê hương và chịu trách nhiệm cho các học trò vân tập quanh con”. Vì thế, Ngài Choying Rangdrol đến Yakyegar ở Hạ Ser, gần thung lũng quê nhà. Tuân theo chỉ dẫn của đạo sư, Ngài đã thành lập một khu trại, nơi Ngài thề sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để hành trì tâm linh.

Sau khi nghe về các hoạt động tâm linh của Dodrupchen Rinpoche, Ngài Choying Rangdrol đã thúc giục Lerab Lingpa[4], vị Terton từ Nyarong, “Hãy đến tu học với Đức Dodrup Tenpai Nyima và nghiên cứu những điểm then chốt mà khó hiểu trong Phần Chỉ Dẫn Trực Tiếp của giáo lý Nyingtik, cũng như các điểm then chốt sâu xa của giai đoạn phát triểnhoàn thiện. Sau đấy, hãy dạy lại chúng cho tôi”. Theo cách này, Ngài Choying Rangdrol đã thọ nhận toàn bộ giáo lý khẩu truyền của Đức Tenpai Nyima[5] thông qua Terton tôn quý từ Nyarong. Sau đó, Ngài chuyển Pháp luân Đại Viên Mãn tự nhiên, ban chúng cho các học trò, những vị đã vân tập về từ khắp các vùng của miền Đông Tây Tạng, từ Golok ở phía Bắc đến biên giới Trung Quốc trong những vùng đất thấp. Ngài đã đưa vô số học trò may mắn đến sự trưởng thành tâm linh nhờ giảng dạy dựa trên trải nghiệm bản thân của họ.

Cả Khenchen Ngawang Palzang và đấng bảo hộ này đều được xem là hóa hiện của đạo sư Vimalamitra [Vô Cấu Hữu[6]] và hoạt động giác ngộ của chư vị cũng như lợi lạc mà chư vị đem đến cho chúng sinh thật to lớn. Ngài Choying Rangdrol có thể nhớ rõ ràng đời quá khứ khi là Đức Yudra Nyingpo[7]. Ngài có những linh kiến về chư Tôn thiền định và luôn duy trì tri kiến thanh tịnh về thế giới. Ngài đã giới thiệu cho tất cả học trò bản tính chân thật của họ tùy theo căn cơ riêng, làm khởi lên sự chứng ngộ trong tâm mỗi vị. Bằng cách cấm săn bắt và đánh cá trên núi non và thung lũng và khích lệ mọi người trì tụng Chân ngôn Om Mani Padme Hung và làm những thiện hạnh khác, tầm ảnh hưởng của Ngài trùm khắp miền Đông Tây Tạng.

Ngài đã dành trọn cuộc đời để tham gia vào những hoạt động giác ngộ như vậy, sống đến ngoài tám mươi tuổi. Các học trò của Ngài – những tâm tử nam và nữ được nuôi dưỡng bằng cam lồ từ khẩu giác ngộ của Ngài – bao gồm những đấng tôn quý, đạo sư, vị cai quản, Tulku, học giả, thành tựu giả, Yogi và nhiều vị khác từ khắp miền Đông Tây Tạng, khiến gần như chẳng có ai không đỉnh lễ dưới chân Ngài. Trong số các học trò căn bản cao quý nhất, những vị trì giữ truyền thừa, hai Yogi vĩ đại – Drime Ozer từ Rakor và Chokden từ Dowa đã đạt được sự chứng ngộ tức thì. Purpa từ Thượng Drong và nhiều vị khác đã thành tựu thân cầu vồng; và có những học trò khác, chẳng hạn Khenpo Chonyi Seltong, Pema Dorje, Drigor Gongtse, Lama Garde, Gyarong Tsondru, Khenchen Chokhyab[8] và Godzi Terton. Những học trò này đã phụng sự giáo lý thù thắng, thứ tập trung vào tinh túy, ở mức độ bao la. Vị đạophi phàm và tôn quý nắm giữ truyền thừa của Ngài Choying Rangdrol chính là Đức Dodrupchen thứ tư[9].

 

Nguồn Anh ngữ: Nyoshul Khenpo Jamyang Dorje, A Marvelous Garland of Rare Gems – Biographies of Masters of Awareness in the Dzogchen Lineage [tạm dịch: Tràng Ngọc Báu Hiếm Có Tuyệt Diệu – Tiểu Sử Chư Đạo Sư Giác Tính Trong Truyền Thừa Dzogchen], Padma Publishing.

Richard Barron (Lama Chokyi Nyima) chuyển dịch Tạng-Anh.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Về Nyoshul Khen Rinpoche, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35078/tieu-su-van-tat-nyoshul-khenpo-jamyang-dorje.

[2] Về Đức Adzom Drukpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34938/tieu-su-van-tat-adzom-drukpa-rinpoche-drodul-pawo-dorje-1842-1924-.

[3] Thuật ngữ Chatralwa trong Tạng ngữ (nghĩa đen, “ai đó thoát khỏi việc có bất kỳ điều gì phải làm”) liên quan đến ai đó có sự chứng ngộ cao, vị có lối sống đơn giản, thường thì du mục với rất ít tài sản và chẳng bận tâm đến các vấn đề thế tục.

[4] Về Đức Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a33571/3/tieu-su-terton-sogyal.

[5] Về Đức [Dodrupchen Rinpoche] Tenpai Nyima, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a35305/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-ba-jigme-tenpai-nyima-1865-1926-.

[6] Theo Rigpawiki, Vimalamitra – Vô Cấu Hữu hay Mahavajra là một trong ba đạo sư Phật giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 9, nơi Ngài giảng dạy rộng khắp và biên soạn cũng như chuyển dịch nhiều bản văn Phạn ngữTinh túy của các giáo lý của Ngài được biết đến là Vima Nyingtik, một trong những giáo lý Tâm Yếu của Đại Viên Mãn.

Vimalamitra dành mười ba năm ở Tây Tạng và sau đó, hứa khả sẽ trở lại Tây Tạng mỗi một trăm năm để củng cố giáo lý Tịnh Quang Đại Viên Mãn, Ngài đến Ngũ Đài Sơn của Trung Quốc. Ở đó, Ngài duy trì Thân Cầu Vồng – ‘Thân Đại Chuyển Di’ và sẽ an trụ như vậy cho đến khi tất cả 1002 vị Phật của Hiền Kiếp này xuất hiện. Khi chư vị đều đã xuất hiện, Ngài sẽ đến Kim Cương Tòa ở Ấn Độ một lần nữa và hiển bày trạng thái giác ngộ viên mãn.

[7] Theo Rigpawiki, Yudra Nyingpo – một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche. Ngài là một dịch giả và học giả vĩ đại, vị thọ nhận giáo lý từ Vairotsana, Vimalamitra và Guru Rinpoche. Ngài đã dịch nhiều tác phẩm, trong đó có mười ba bản văn cuối trong mười tám bản văn Semde.

[8] Theo Rigpawiki, Khenpo Chokhyab, tức Ngài Pema Choying Khyabdal (1920-1997) – một học trò quan trọng của Đức Yukhok Chatralwa, Popa Tulku và Khenpo Thubga. Ngài đã nghiên cứu trong ba năm với Đức Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol, thọ nhận những chỉ dẫn cốt tủy Dzogchen phi phàm của Nyingtik, sau đấy, nghiên cứu mười hai năm với Popa Tulku; nhờ đó, Ngài trở thành một học giả vĩ đại và một đạo sư vô cùng chứng ngộ. Ngài viên tịch vào ngày 3 tháng 3 năm Hỏa Sửu (1997).

[9] Về Dodrupchen Rinpoche thứ tư, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a34113/2/tieu-su-van-tat-duc-dodrupchen-thu-tu-jigme-trinle-palbar.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12749)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29515)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27718)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15021)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16237)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22729)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14582)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18905)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14737)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43863)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13656)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12528)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43420)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14418)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14133)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39684)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13855)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37301)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40033)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13782)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37215)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11743)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12499)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12559)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13024)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14816)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12443)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11940)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11928)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12374)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30655)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31875)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35380)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27782)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11457)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31694)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27064)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24127)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30856)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28094)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23244)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23561)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21534)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26255)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13019)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21874)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14095)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37984)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32078)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28538)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19595)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7304)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant