Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)

07 Tháng Mười Một 202119:51(Xem: 2409)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Phakmodrupa Dorje Gyalpo (1110-1170)

Dan Martin[1]
Pema Jyana

Hoa Vô Ưu

Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham. Theo một số tài liệu, cha Ngài tên là Wena Atar và mẹ Ngài là Tsunne. Họ qua đời khi Ngài mới chỉ là đứa bé khoảng bảy tuổi. Các nguồn khác cho rằng họ tên là Tsangpa Paldrak và Tsangmo Rinchen Gyen. Em trai của Ngài, (hoặc theo một số nguồn, em họ), vị sau đó được biết đến với danh hiệu Dampa Deshek (1122-1192), sau này thành lập một Tu viện Nyingma cổ xưa vô cùng quan trọng ở Kham gọi là Kathok. Người ta nói rằng trước khi lên ba, Ngài Phakmodrupa có thể nhớ rằng Ngài từng là một con khỉ vào thời của Phật quá khứ – Đức Ca Diếp. Ngài quên chuyện đó khi cha mẹ cho Ngài ăn thịt ô nhiễm, nhưng phục hồi lại ký ức về đời quá khứ này sau đó.

Khi cha mẹ qua đời, Ngài Phakmodrupa được đặt dưới sự chăm sóc của chú, một tu sĩ có công việc ở bên ngoài Tu viện nhỏ, Chakhyi Lhakhang, như một thầy tu gia đình. Người chú này đã tài trợ cho thời kỳ mới tu của Ngài, trong khi Ngài lại giúp chú bằng cách làm nhiều việc khác nhau, chẳng hạn minh họa các bản thảo. Ngài có tài năng thiên bẩm về hội họa và thi pháp, làm chủ đọc và viết không chút khó khăn. Sau đấy, Ngài làm người giữ ghi chép cho Khenpo Tsultrim, vị trụ trì của Tu viện; vì vị này, Ngài cũng chép một quyển kinh Bát Nhã Ba La Mật bằng chữ bạc.

Khi Ngài Phakmodrupa khoảng hai mươi tuổi, mang theo chút ngọc lam để làm vốn, Ngài du hành một hành trình dài đến các vùng trung tâm của Tây Tạng. Ở đó, sau khi thọ đại giới vào năm hai mươi lăm tuổi, và sau nhiều năm nghiên cứu tại các nơi khác nhau – ban đầu chủ yếu là với những vị thầy Kadampa, và sau đấy là những vị thầy của truyền thừa Mật thừa tồn tại khi ấy – Ngài tìm ra một vị thầy mà Ngài dành khoảng mười hai năm thân cận. Đây là một trong những đạo sư Mật thừa nổi tiếng nhất của trường phái Sakya từ thời xa xưa – Đức Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158). Trong thời gian thân cận Đức Sachen, Ngài chủ yếu nghiên cứuthực hành Lamdre. Ngài đã biên soạn một trích yếu các giáo lý Lamdre, điều vẫn còn tồn tại, được gọi là Pedzod-ma.

Sau đấy, Ngài dành hai năm bên Đức Gampopa Sonam Rinchen (1070-1153), một đệ tử thân cận của Tổ Milarepa. Ban đầu, khi Ngài đến trụ xứ của Đức Gampopa, Daklha Gampo, cùng với Zhang Yudrakpa Tsondru Drakpa (1123-1193), Đức Gampopa khó ở và không tiếp khách; vì thế, Ngài dành bốn ngày gánh đất và đá để xây dựng một bảo tháp. Kết quả là, Ngài có thể thọ nhận giáo lý và dưới sự dìu dắt của Đức Gampopa, Ngài được cho là đã đạt thành tựu viên mãn về Đại Thủ Ấn. Những năm tháng không mệt mỏi tìm kiếm sự dẫn dắt tâm linh của Ngài đã hoàn mãn. Một vài trong số những cuộc đối thoại của Ngài với Đức Gampopa về thiền định vẫn còn có thể đọc được cho đến nay.

Một ẩn sĩ ở vùng về phía Đông của thành Tsetang, một nơi được gọi là Phakmodru, trao cho Ngài ẩn thất thiền định của ông ấy. Đó là một nơi có vẻ đẹp tự nhiên lớn lao với nhiều cây bách xù. Dần dần, các thiền gia khác đã đến đó và dựng thất của họ, điều tạo thành trung tâm ban đầu cho Tu viện Densatil. Nơi này về sau trở thành Tu viện ‘mẹ’ cho hàng trăm Tu viện khác và vào thời kỳ đầu này, nó thường được gọi đơn giản là Densa, “trụ xứ”.

Sau đó, vào thời kỳTây Tạng được cai quản bởi Triều đình Phakmodru (1350-1481), các bảo tháp oai nghiêm, thứ đóng vai trò là mộ tháp hoàng gia, đã được xây dựng ở đây. Địa điểm nơi có thiền thất đơn giản từ cỏ và cây liễu của Đức Phakmodrupa – nó đã tồn tại cho đến giữa thế kỷ hai mươi – vẫn được xem là địa điểm linh thiêng nhất của Tu viện. Khi Đức Phakmodrupa giảng dạy ở đó, người ta nói rằng các tu sĩ thường phủ kín mặt đất tuyến đường từ thất của Ngài đến ngai tòa thuyết giảng bằng mũ, y phục và khăn Katak của họ. Các tu sĩ bị thu hút từ những nơi xa xôi bởi các tường thuật phổ biến rằng, hầu như không có ngoại lệ, những vị tham dự các buổi giảng của Ngài Phakmodrupa đều có các kinh nghiệm thiền định rất mạnh mẽ.

Sau đây là ví dụ ngắn từ các giáo lý của Ngài Phakmodrupa, với sự nhấn mạnh vào thiền định. Nó được trích từ Thang Bảo Châu:

Những người nương tựa [vào các triết lý này]

thể đạt được sự chắc chắn nhờ khả năng hiểu biết của họ

Về các tri kiến đa dạng khác nhau của họ,

Nhưng bởi họ không hiểu hay chứng ngộ chúng

Nhờ thực hành thiền định,

[Tri kiến] của họ là tri kiến chẳng có chứng ngộ.


Không chỉ trong ba vô lượng kiếp,

Mà thậm chí trong một triệu, họ có thể đi theo lối của họ.

Vẫn chẳng thể ép dầu từ vỏ khô.

Họ có thể cày cuốc mặt đất mùa đông,

Nhưng mùa xuân đến cũng chẳng có kết quả nào.

Những vị muốn đi về Đông

Uổng phí bước đi khi đi về Tây.

Những người đau khổ bởi cái nóng oi ả

Muốn bóng mát, nhưng chắc chắn, họ cứ lặp đi lặp lại

Sưởi bên lửa,

Họ sẽ chỉ tiếp tục đau khổ bởi nóng.

Ngài Phakmodrupa xem bản thân là đầy tớ của tất cả hữu tình chúng sinh và bất cứ cúng dường nào mà Ngài nhận được đều được dùng vì sự an lành của toàn bộ cộng đồng tu sĩ. Ngài ăn đồ ăn giống như những vị khác. Ngài rất nghiêm khắc về việc giữ gìn giới luật Luật Tạng của bản thânmong chờ điều tương tự từ cộng đồng của Ngài. Ngài không xem thường bất kỳ nhiệm vụ nào và được biết là đã gánh nước và dọn tro. Ngài đi khất thực cùng với những tu sĩ khác, một thực hành nổi tiếng ở các nước Phật giáo Theravada nhưng khác thường ở Tây Tạng. Ngài có thói quen sống cô tịch trong giai đoạn trăng khuyết dần, nhưng trong giai đoạn trăng tròn dần, Ngài thường ban giáo lý mỗi buổi chiều. Nhiều trong số những thời giảng dạy được gọi là Tsogcho này đã được ghi chép lại và chúng là những bài giảng lôi cuốn.

Khi Ngài Phakmodrupa qua đời vào năm 1170, sự kiện được cho là đồng hành cùng nhiều dấu hiệu tuyệt vời về sự thành tựu cao cấp của Ngài. Khoảng 1600 tu sĩ đã tham dự tang lễ của Ngài. Nhiều môn đồ cư sĩtu sĩ của Ngài quyết định xây dựng một bảo tháp để lưu giữ xá lợi của Ngài. Một nhóm thợ thủ công Newar, dẫn đầu bởi Manibhadra, đã thực hiện nhiều công việc liên quan. Ngoài chân dung của những đại thành tựu giả, bảo tháp có 2170 hình tướng khác nhau của Phật.

Truyền thừa của Ngài Phakmodrupa thường được gọi là Phakdru Kagyu hay thuật ngữ này được dùng như một cách để bao gồm tất cả truyền thừa xuất hiện từ các đệ tử của Ngài. Quan trọng và nổi tiếng nhất trong các truyền thừa hay trường phái này là Drukpa Kagyu – điều đến từ đệ tử Lingrepa Pema Dorje (1128-1188), Drikung Kagyu – điều đến từ Jigten Gonpo Rinchen Pal (1143-1217) và Taklung Kagyu từ Taklung Thangpa Tashi Pal (1142-1209/10). Năm đệ tử khác, những vị thiết lập các truyền thống riêng biệt của Kagyu (hay là đạo sư của những vị sáng lập) là: Marpa Sherab Yeshe (1135-1203) – vị sáng lập Martsang Kagyu, Gyergom Tsultrim Senge (1144-1204), vị sáng lập Shukseb Kagyu, Gyaltsa Rinchen Gon (1118-1195) – vị sáng lập Tu viện Tropu, trụ xứ của Tropa Kagyu được khởi xướng bởi đệ tử Tropu Lotsawa Jampa Pal (khoảng 1172-1225/1236), Yabzang Choje Chokyi Monlam (1169-1223) – vị sáng lập Yabzang Kagyu và Yelpa Yeshe Tsek (1134-1194) – vị sáng lập Yelpa Kagyu.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Pakmodrupa/TBRC_P127.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Dan Martin là một học giả ở Israel. Ông ấy nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Indiana năm 1991.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12748)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29515)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27718)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15021)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16237)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14582)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18904)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14737)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43863)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13655)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12528)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43420)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14418)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14133)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39684)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13855)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37301)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40032)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13782)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37215)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11742)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12499)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12559)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13024)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14816)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12443)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11940)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11928)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12374)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30655)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31875)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35380)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27781)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11456)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31694)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27064)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24127)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30856)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27082)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28093)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23244)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23561)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21534)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26255)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13018)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21873)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14095)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37984)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32078)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28538)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19595)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7304)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant