Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

06 Tháng Mười Hai 202119:51(Xem: 1669)
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất
Tiểu Sử Vắn Tắt Đức Shechen Rabjam Thứ Nhất

Samten Chhosphel[1]
Pema Jyana


cam tho1

 Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một. Cha mẹ Ngài thuộc về một bộ tộc cao quý, quyền uy ở Uru, Penpo tên là Depa Tonpo, những vị cai quản nhiều gia đình trong vùng.

Theo tiểu sử, các tiền thân của Ngài bao gồm nhiều đạo sư Ấn ĐộTây Tạng, chẳng hạn Tôn giả Văn Thù Hữu (Manjushrimitra)[2], vua Pháp A Dục, Kamalashila (713-763), Lhase Mutik Tsepo, một trong những tu sĩ đầu tiên ở Tây Tạng – Ma Rinchen Chok[3], trưởng lão Kagyu – Milarepa (1040-1123), Rongton Sheja Kunrik (1367-1449)[4] và Drikung Rinchen Phuntsok (1509-1557).

Mười ba tuổi, Ngài trốn khỏi nhà và đến học viện lớn tại Tu viện Ketsel, một trung tâm nổi tiếng về các nghiên cứu biện chứng trong truyền thống Sakya. Vị trụ trì ở đó đã trao cho Ngài các giới luật tu sĩ căn bản (Rabjung Dompa). Ngài đã học thuộc nhiều bản văn quan trọng trong chương trình chính yếu của Tu viện, bao gồm những lời cầu nguyện, nghi thức và đoạn kệ gốc và sau đó, nghiên cứu tuyển tập bảy bản văn Pramana của lô-gic và nhận thức luận Phật giáo. Ngài tiếp tục nghiên cứu với nhiều đạo sư tại các Tu viện Sakya khác nhau, bao gồm Palkhor Chode ở Gyantse, Tanak Thubten Ling, Serdokchen và Ngor. Đức Sakya Gongma, có lẽ là Ducho Labrangpa Jamgon Sonam Wangchuk (1638-1685) đã nhiều lần tán thán Ngài về sự uyên bác trong truyền thống.

Tại Sangphu, Ngài tiếp tục nghiên cứu triết học Pramana trong một giai đoạn dài. Ngài tập trung vào nhận thức luận và cuối cùng, trở thành một học giảthẩm quyền về chủ đề này. Ngài đã tham gia vào các cuộc thi truyền thống về kỹ năng tranh luậnchứng tỏ kiến thức của bản thân về Pramana tại các Tu viện Sangphu, Rato và Dreyul Ketsel, tất cả đều nổi tiếng về sự nghiên cứu về nhận thức luận. Kết quả là, Ngài nhận được danh hiệu Rabjampa, nghĩa là “vô lượng”.

Ngài cũng nghiên cứu với nhiều đạo sư xuất chúng từ truyền thống Geluk tại ba Tu viện lớn – Sera, Drepung và Ganden, và Ngài đã nghiên cứu các Mật điển theo truyền thống Geluk tại cả Học viện Gyurme và Gyuto ở Lhasa, bao gồm Mật Tập, Thắng Lạc, Đại Oai Đức, và cũng trở nên nổi tiếng trong những học giả Geluk.

Ngài sau đó đóng vai trò là vị hỗ trợ cho Pabongkhapa Jamyang Drakpa, một vị phụ tá thân cận của Đức Dalai Lama thứ Năm – Ngawang Lobzang Gyatso (1617-1682). Ngài thọ nhiều giáo lý từ cả Ngài Jamyang Drakpa và chính Đức Dalai Lama.

Có lần, Ngài Jamyang Drakpa đã tiên đoán rằng mặc dù Ngài Tenpe Gyaltsen vốn đã là một chuyên gia về các Mật điển của Tân Dịch (Sarma) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ mười một trở về sau], sự thành công trong tương lai của Ngài phụ thuộc vào việc nghiên cứuthực hành các Mật điển cổ xưa của trường phái Nyingma (Cựu Dịch) [các bản văn Mật thừa được dịch sang Tạng ngữ từ thế kỷ bảy đến thế kỷ mười), đặc biệthệ thống Đại Viên Mãn (Dzogchen).

Khi ấy, Đức Dzogchen Drubwang thứ Nhất – Pema Rigdzin (1625-1697) đang ban những giáo lý Dzogchen cao cấp tại Yerpa Lhari, về phía Bắc, gần Lhasa. Hầu hết các quan chức chính phủ được bổ nhiệm trong chính quyền của Đức Dalai Lama thứ Năm, bao gồm cả Ngài Jamyang Drakpa, đều đang tham dự những giáo lý này. Ngài Tenpe Gyaltsen đã gia nhập cùng họ và chẳng bao lâu, Ngài trở thành học trò đứng đầu về sự hiểu và thành tựu tri kiếnthực hành Đại Viên Mãn. Nhờ đó, Ngài nhận được danh hiệu “Dzogchen Rabjampa” và trở thành một trong những đệ tử thân thiết nhất của Đức Dzogchen Drubwang Pema Rigdzin.

Theo chỉ dẫn từ Đức Dalai Lama thứ năm, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã đồng hành với Ngài Dzogchen Drubwang trong một chuyến du hành đến Kham với tư cáchthị giả. Năm 1685, với sự hỗ trợ của vị vua thứ ba mươi bảy của Derge, Sangye Tenpa (khoảng 1638-1710), Ngài Tenpe Gyaltsen hỗ trợ Đức Pema Rigdzin thiết lập một ẩn thất gọi là Orgyen Samten Choling trong thung lũng Rudam Kyitram, về phía Đông Bắc của thủ phủ Derge. Tu viện dần dần phát triển và sau này trở thành một trong sáu trung tâm tu sĩ chính của truyền thống Nyingma, được biết đến là Tu viện Dzogchen.

Theo một lịch sử tu viện, vào năm 1690, khi bốn mươi mốt tuổi, Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã thành lập một Tu viện gọi là Shechen Orgyen Chodzong, bao gồm một nhà tu sĩ và sảnh đường chính, không xa với Dzogchen. Vị trụ trì đầu tiên tên là Pema Wangchuk, với biệt danh là “Lama Cười”. Người ta nói rằng chương trình ở đó nhấn mạnh vào cả nghiên cứuthực hành. Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen đã giảng dạy trong cả thời khóa mùa đông và mùa hè. Vào mùa hè, các học trò của Ngài thường lắng nghe và quán chiếu giáo lý về các bản văn nền tảng từ Tam Tạng. Vào mùa đông, họ thường thực hànhthiền định về giáo lý Mật thừa. Theo cách này, người ta nói rằng, họ đã noi theo truyền thống trước kia của việc hòa quyện nghiên cứuthực hành.

Lúc bắt đầu Tu viện, người ta thuật lại rằng Ngài Tenpe Gyaltsen đã tiên đoán rằng một “kho tàng Giáo Pháp” sẽ phát triển ở chính nơi đó; tuy nhiên, giáo lý sẽ đạt đến đỉnh cao nhất ở phía trước của một ngọn núi ở phía bên kia. Đức Rabjam thứ Hai – Gyurme Kunzang Namgyal (1713-1769) đã thành lập một Tu viện mở rộng của Shechen ở phía bên kia từ địa điểm ban đầu vào năm 1734 hay 1735. Chính tại nơi này, Tu viện cuối cùng phát triển thành Tu viện Shechen được biết đến ngày nay, một trong sáu trung tâm tu sĩ Nyingma chính yếuTây Tạng. Dựa trên việc thành lập Tu viện Shechen, Ngài sau này được biết đến là Đức Shechen Rabjam thứ Nhất.

Sau đó, vua của Derge đã cúng dường Ngài Tenpe Gyaltsen Tu viện Trasho Pomdrak, nơi vốn là trụ xứ của Đức Pomdrakpa Sonam Dorje (1170-1249), trưởng lão của truyền thừa Kagyu. Ngài đã sống vài năm trong một thiền thất mới xây dựng ở đó. Tuy nhiên, dường như vài tu sĩ ở đó không thích Ngài, hoài nghi Ngài về ý định biến Tu viện từ truyền thống Kagyu thành Nyingma. Người ta nói rằng bởi điều đó, Ngài Dzogchen Rabjampa rời Tu viện và chuyển đi nơi khác, thích giảng dạy cho các đệ tử bất bộ phái hơn.

Vào một thời điểm nhất định, Ngài Tenpe Gyaltsen quyết định rằng Ngài sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để nhập thất và đã sống tại Ẩn thất Tsangrong Shardzong ở Drikung. Tuy nhiên, trong lúc thực hành, Ngài nghe tin đạo sư Dzogchen Drubwang viên tịch và đã nhanh chóng đến Rudam để gia nhập cùng với một vị khác trong những đệ tử thân thiết của Đức Dzogchen Drubwang – Dzogchen Ponlob Namkha Osel (vị qua đời năm 1726) để hoàn thành những tang lễ mở rộng cho đạo sư quá cố. Sau đấy, Ngài sống tại Tu viện Dzogchen, vô cùng tận tụy trong việc ban giáo lýquán đỉnh.

Ngài sau đó hỗ trợ Dzogchen Ponlob trong việc lựa chọn và xác định Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin (1699-1758), vị đã sinh vào dòng dõi của những vị vua Mông Cổ Orod. Cùng nhau, họ đã đưa cậu bé về Tu viện Dzogchen, tấn phong, cử hành lễ thế phát và trao các danh hiệu Pema Wangchen và Pema Wangdrak.

Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài Tenpe Gyaltsen bao gồm Đức Dzogchen Drubwang thứ Hai – Gyurme Thekchok Tendzin và Hor Rongpa Tsawa – Pema Wangchuk. Bên cạnh đó, Ngài được cho là có hai mươi lăm vị trì giữ truyền thừa, những vị chủ yếu tập trung vào Dzogchen, bao gồm Orgyen Samten, Pema Gyaltsen, Lama Dargye từ Luse, một vị Tokden từ Khardo tên Orgyen Tsultrim và Orgyen Kalzang từ Ling Ratak.

Ngài Rabjam Tenpe Gyaltsen viên tịch năm 1704, Mộc Thân của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười hai, khi năm mươi lăm tuổi. Một ngôi chùa xá lợi tưởng niệm Ngài đã được xây dựng tại Tu viện Dzogchen bởi các đệ tử. Dòng tái sinh của Ngài được biết đến là Shechen Rabjam.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/First-Shechen-Rabjam-bstan-pai-rgyal-mtshan/9213.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Samten Chhosphel nhận bằng Tiến sĩ từ CIHTS ở Ấn Độ, nơi ông ấy đóng vai trò là người đứng đầu Phòng Xuất Bản trong 26 năm. Ông có bằng Thạc sĩ về Biên Soạn & Xuất Bản từ Đại học Emerson, Boston. Hiện tại, ông là Giáo Sư Hỗ Trợ (Assistant Professor) tại Đại Học Thành Phố New York và Cộng tác viên Ngôn ngữĐại Học Columbia, New York.

[2] Theo Rigpawiki, Manjushrimitra (Tạng: Jampal Shenyen, tức Văn Thù Hữu) – một trong những đạo sư cổ xưa của truyền thừa Dzogchen. Ngài là đệ tử của Tổ Garab Dorje và là đạo sư chính yếu của Ngài Shri Singha. Ngài nổi tiếng vì đã sắp xếp các giáo lý Dzogchen thành ba bộ: bộ Tâm (Semde), bộ Hư Không (Longde) và bộ Chỉ Dẫn Cốt Tủy (Mengakde). Di chúc cuối cùng của Ngài, điều mà Ngài trao cho Shri Sinha trước khi đắc thân cầu vồng, được gọi là Sáu Kinh Nghiệm Thiền Định.

[3] Về Ngài Ma Rinchen Chok, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a36080/2/tieu-su-van-tat-duc-ma-rinchen-chok.

[4] Theo Rigpawiki, Rongton Sheja Kunrik hay Shakya Gyaltsen (1367-1449) – một trong những học giả vĩ đại nhất của trường phái Sakya và thực sự trong cả lịch sử Tây Tạng, vị mà giống như đạochính yếu của Ngài – Đức Yakton Sangye Pal, đặc biệt nổi tiếng về việc làm chủ giáo lý Bát Nhã và bản văn Hiện Quán Trang Nghiêm [Abhisamayalankara]. Ngài đã giảng dạy tại Sangphu Neuthog vĩ đại và thành lập Tu viện Nalendra của mình vào năm 1436. Các đệ tử nổi tiếng nhất của Ngài là Shakya Choden và Gorampa Sonam Senge.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26390)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12746)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29512)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27715)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25911)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15018)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14577)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18903)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14735)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43861)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47496)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13654)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12526)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40391)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43419)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14413)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14133)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39681)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13854)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37296)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40030)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13779)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37212)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11742)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22523)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12497)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12558)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13023)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14815)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12443)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11939)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11928)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12366)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30655)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31873)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35379)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27780)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11454)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27063)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24126)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30855)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27080)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28090)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23243)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23559)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21533)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26254)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13017)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21869)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14095)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 37982)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32075)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28536)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19594)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7304)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant