Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

52. Đại sư thứ 52: Ghantapa - Người rung chuông

04 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12140)
52. Đại sư thứ 52: Ghantapa - Người rung chuông

CÁC VỊ CHÂN SƯ ĐẠI THỦ ẤN
Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Đại sư thứ 52: Ghantapa - Người rung chuông

Tự ban phép lành cho chính mình
Bằng cách buộc tâm ở ba nơi

Kinh lalana ở bên phải

Kinh rasana ở bên trái

Avadhuti ở ruột cùng

Để nắm bắt được chân lý

Kẻ trí giả cần quan tâm đến ba điều:

Chân sư - tâm - và hiện tượng


Truyền thuyết


Ghantapa
vốn là tu sĩ của một đại tu viện thuộc vùng Sri Nalanda. Ngài nổi tiếng là người giữ gìn giới luật tinh nghiêm và thông thạo về Ngũ minh môn.


Chẳng bao lâu, ngài rời Nalanda đi vân du đây đó để hoằng dương chánh pháp, làm lợi lạc quần sanhthực hành hạnh vô ngã, cũng là để mở rộng tầm hiểu biết về mọi mặt.


Vào thời đó, hoàng đế Devapala do công đức đời trước nên cai trị một vương quốc giàu cóthịnh vượng gồm một triệu tám trăm ngàn hộ dân, cùng với hai nước chư hầu khác là KamapuraBengal.


Xứ Kamapura có chín trăm ngàn hộ, xứ Bengal có bốn trăm ngàn hộ, tổng cộng ngài cai trị cả thảy ba triệu một trăm ngàn hộ dân.


Thủ phủ Pataliputra là nơi mà đạo sư Ghantapa đến truyền bá đạo pháp. Thường ngày ngài đi khất thực và về nghỉ ngơi dưới một bóng cây đại thụ.


Một hôm, hoàng đế bàn với hoàng hậu rằng: “Tất cả các pháp đều vô thường. Tất cả chúng sinh đều phải chịu khổ đau. Tất cả những thấy biết, cảm thọ trong cuộc sống thật là vô nghĩa. Đối với công việc triều chính, ta đã chu toàn trách nhiệm, ta đã trải rộng biên cương, lo cho dân lành một cuộc sống bình yên, no đủ. Vậy chúng ta có nên cúng dường những thứ vật thực cần thiết cho tăng chúng để tích lũy thêm công đức cho đời sau chăng?”


Hoàng hậu nghe qua bèn tâu: “Trong nhiều đời thuộc quá khứ, bệ hạ đã từng cúng dường cho các thánh tăng, nên đời này mới được hưởng phước báo. Cớ sao chúng ta lại không tiếp tục tạo dựng công đức cho đời nay lẫn đời sau? Thần thiếp nghe nói rằng hôm nay có một du tăng từ phương xa đến. Có lời đồn rằng ngài là một bậc đạo hạnh, trí huệ thông suốt như một bậc thánh. Ngài chẳng có gì quí giá ngoài những vật dụng cần thiết và một tấm tọa cụ. Thường ngày ngài đi khất thực loanh quanh. Vậy, ta nên thỉnh ngài đến hoàng cung để dự đại tiệc. Chúng ta sẽ thết đãi ngài tám mươi bốn món ăn chính, mười bốn loại thịt ngon, rượu bồ đào và năm loại thức uống khác. Chúng ta sẽ thay chiếc đèn cũ kỹ của ngài bằng ánh sáng lấp lánh của những viên kim cương. Và rồi, chúng ta sẽ dâng ngài tất cả những thứ giải trí mà vương quốc của chúng ta có thể mang lại.”


Nhà vua nghe qua những lời của hoàng hậu liền hoan hỷ chuẩn y.


Sáng hôm sau, vua sai quân hầu đến thỉnh sư. Nhưng ngài từ chối, sứ giả đành phải quay về báo lại với đức vua.


Hôm sau nữa, đức vua đích thân đi thỉnh sư. Khi nhà vua đến nơi, ngài cúi mình đảnh lễ sư và muốn biết lý do vì sao sư từ chối lời mời đến hoàng cung. Sư đáp: “Bệ hạ bất tất phải phiền luỵ đến thế.”


“Quả nhân vì kính tín đại sư nên mới thân hành đến đây. Mong đại sư quá bước đến hoàng cung.”


“Vương quốc của bệ hạ đầy rẫy những điều tác tệ. Ta không đến đâu.”


“Cúi mong đại sư hoan hỷ lưu lại với chúng tôi một năm thôi.”
Mặc cho đức vua nài nỉ, Ghantapa vẫn một mực từ chối không chịu đến viếng hoàng cung, dù chỉ một ngày. Sư bảo: “Nhà vua đi, đứng, nằm, ngồi đều không tránh được tội lỗi. Thật bất tịnh, nên ta dứt khoát không nhận lời mời.”


Thế là, nhà vua đành phải quay về. Nhưng rồi ngày nào ngài cũng đến vấn an sư, với hy vọng sư sẽ đổi ý. Và cứ như thế trong suốt bốn mươi ngày nhưng không đem lại kết quả gì.
Cuối cùng nhà vua và hoàng hậu cảm thấy bị xúc phạm quá đáng. Ngọn lửa sân hận bùng cháy trong tâm thức họ.


Vua hạ chiếu rao truyền khắp nơi rằng, người nào có thể phá được phạm hạnh của sư Ghantapa sẽ được trao cho nửa vương quốc và được thưởng một trăm cân vàng.


Lúc bấy giờ ở kinh thành Hoa Thị (Pataliputra) có một mụ điếm già tên là Darina luôn mong mỏi có một cuộc sống giàu sang. Khi hay tin ấy bèn tìm đến hoàng cung để hiến kế.


Mụ khẳng định với nhà vua rằng mụ có thể thoả mãn yêu cầu của nhà vua và làm cho nhà sư kiêu mạn kia phải thân bại danh liệt Thế là vua chấp thuận kế sách của mụ.


Darina
vốn có một thời oanh liệt ở chốn lầu xanh, mụ biết đủ trăm phương nghìn kế để quyến rủ đàn ông, lại có một cô con gái vô cùng xinh đẹp ở tuổi vừa mới cập kê.


Nàng hãy còn rất trong trắng, chưa hề bị nhiễm ô bởi cuộc đời. Nàng có một khuôn mặt tựa trăng rằm, dáng đi uyển chuyển, lời nói dịu dàng, khôn ngoan, một thân hình khêu gợi và một khuôn ngực tròn đầy. Mụ quyết định: “Ta sẽ khiến con gái ta đem ông tăng này trở lại với thế giới của dục vọng và ta sẽ phá hủy đạo hạnh của y trong mười ngày liên tục.”


Thế là mụ già đi đến chỗ ở của Ghantapa để cúng dường. Mỗi lần đến như thế, mụ đều tỏ ra rất cung kính đảnh lễ trước ngài. Đến ngày thứ mười, mụ tiến lại gần bên sư thưa: “Bạch thầy! Xin thầy cho phép tôi được phục vụ trong suốt mùa an cư này.”


Ghantapa
không hề quan tâm đến mụ. Nhưng từ ngày này sang ngày khác, mụ cứ theo nài nỉ xin được phục vụ ngài và cuối cùng mụ cũng được sự đồng ý của sư.


Darina
lấy làm vui mừng liền bày ra một cuộc tiệc để ăn mừng cái gọi là sự thành công bước đầu của mình. Mụ ngâm nga luôn miệng:


Mánh khoé của một cô gái

giúp nàng thực hiện ước mơ.

Sức quyến rũ của nàng

là vũ khí vô cùng lợi hại.


Mụ nhủ thầm: “Bằng mưu mẹo ta có thể lừa phỉnh cả thế gian này, sá chi một nhà sư.”


Thế là mụ điếm già cố tìm cách phô trương năng lực của mình. Khi mùa an cư bắt đầu, Ghantapa bảo với mụ rằng chỉ nên sai các người nam mang vật thực đến cúng dường. Tuy nhiên, sư không đề cập với mụ việc không cho người nữ đến phục vụ. Darina bèn ưng thuận.


Trong hai tuần lễ đầu, mụ sai toàn những thanh niên mang vật thực gồm gạo và nước suối đến cúng dường.


Nhưng đến ngày thứ mười lăm, mụ chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Mụ sửa sang, trang điểm cho cô con gái ăn vận lộng lẫy như một nàng công chúa, đoạn sai nàng cùng năm mươi thanh niên mang thật nhiều vật thực đến cúng dường sư.


Mụ căn dặn con gái khi đến nơi phải đứng từ xa quan sát vị trí túp lều của sư. Cô gái vâng theo lời mẹ và cố gắng ghi nhớ những lời mẹ dặn.


Sau khi đám thanh niên ra về, cô gái tìm cách lén vào bên trong căn lều của Ghantapa.


Khi nhà sư từ trong rừng trở về, ngài thấy vắng đi những người hầu nam và ngài lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ ăn vận sang trọng như một công nương đang ở trong chỗ ở của ngài.


Sư thắc mắc hỏi cô gái: “Chuyện gì đã xảy ra với các chàng trai vậy?”


“Thưa thầy, họ không có thời gian lưu lại nên tiện thiếp phải ở lại để phục vụ ngài.”


Sư ăn xong bữa, nhưng cô gái vẫn cứ nán lại không chịu ra về.
Mãi đến khi sư nghiêm khắc xua nàng về, cô gái liền đáp: “Trên trời có những đám mây ngũ sắc, thiếp e rằng trời sắp đổ mưa, vì vậy thiếp phải nán lại.”


Cô gái lưu lại cho đến khi mặt trời lặn khuất chân trời. Cuối cùng cô nói: “Mặt trời đã tắt nắng mà tôi không có người đi cùng để hộ vệ. E rằng đi một mình giữa đêm tăm tối sẽ bị cướp mất tư trangthiệt hại đến tính mạng.”


Đến lúc này không thể từ chối được nên sư đồng ý cho cô ngủ lại ở bên ngoài căn lều.


Nhưng khi đêm đến, cô gái giả vờ hoảng sợ kêu khóc ầm ĩ. Không biết làm sao hơn, sư đành để cho cô vào bên trong để ngủ.


Túp lều lại quá nhỏ dành cho hai người nên tất nhiên thân thể hai người phải chạm vào nhau.


Cho đến nửa đêm, thân thể hai người quyện vào nhau làm một và họ cùng nhau trải qua bốn từng lạc thú.


Sáng hôm sau, Ghantapa yêu cầu cô gái ở lại và họ trở thành một đôi vợ chồng. Một năm sau, đứa con của họ cất tiếng khóc chào đời.


Trong thời gian ấy, nhà vua càng trở nên mất kiên nhẫn hơn. Ngài cứ luôn hỏi thăm mụ Darina về việc thực hiện quỷ kế của mụ đã thành công đến đâu nhưng mụ cứ né tránh mãi.


Cho tới ba năm sau, mụ mới đến báo cho nhà vua biết kết quả của âm mưu làm hại nhà sư Ghantapa.


Được tin, nhà vua lấy làm hài lòng phán: “Hãy bảo với con gái nhà ngươi, trong ba ngày nữa ta sẽ đến viếng thăm nàng và nhà sư.”


Đúng ngày hẹn, vua tập trung dân chúng rồi khởi hành đi đến chỗ sư Ghantapa.


Khi ấy Ghantapa bàn với người vợ: “Chúng ta nên ở đây hay nên đi sang một xứ khác?”


Cô gái muốn ra đi, vì cô sợ mọi người sẽ quở mắngsỉ nhục cô. Vì vậy, Ghantapa dấu đứa bé trong tấm áo choàng, kẹp theo một bình rượu ở nách rồi dẫn vợ ra đi.


Rủi ro thay, trên đường đi họ gặp nhà vua ngay ở giữa đường. Nhà vua ngồi trên mình voi cất giọng dè bỉu: “Cái gì dưới lớp áo của thầy vậy? Và cô gái xinh đẹp này là ai?”


“Ta mang theo bình rượu và đứa bé trong tấm áo choàng là con của ta.” Ghantapa đáp, mắt vẫn nhìn thẳng vào đức vua.


“Khi ta mời thầy đến hoàng cung, thầy từ chối, lại còn chê ta là kẻ tội lỗi. Bây giờ thầy hãy nhìn lại xem! Một thầy tu lại có vợ, có con. Rõ ràng như năm với năm là mười. Thầy là một con người đầy tội lỗi.”


thản nhiên đáp: “Ta vô tội. Ngươi chớ sỉ nhục ta.”


Khi nhà vua lập lại lời cáo buộc một lần nữa, Ghantapa hất tung đứa bé và bình rượu xuống dưới đất. Nữ thần đất lúc bấy giờ cả kinh vội dùng thần thông phụt một dòng nước cực mạnh lên cao hứng lấy đứa bé và bình rượu, đặt lơ lửng giữa khối nước.


Đứa bé trở thành sấm sét và bình rượu biến thành một cái chuông (ghanta). Nhà sư Du-già và người vợ cùng biến thành hai vị thần SamvaraVarahi trong tư thế âm dương giao hoà.


Cả hai bay lên trên không trung, còn nhà vua và đoàn tùy tùng bị ngập trong làn nước.


Đám người sắp bị chết đuối sợ hãi nhìn đau đáu lên trời, gào khóc, van xin mong cứu giúp: “Chúng tôi xin quy y thầy.”


Nhưng lúc ấy, Ghantapa đang ở trong Phẫn nộ bất động đại định (Samadhi of immutable wrath) nên ngài vẫn giữ im lặng.


Khi mọi người sắp nguy khốn thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra, dùng một bàn chân chèn nơi chỗ đất nứt và làm cho nước trở về chỗ cũ. Thế là mọi người được cứu sống.


Họ mừng rỡ cúi lạy cầu xintha tội.


Bấy giờ, có một tượng Quán Thế Âm bằng đá bỗng hiện ra ngay chỗ ấy, và cho đến ngày nay ở vị trí nơi chân của bức tượng này vẫn còn phun ra một tia nước nhỏ cao đến sáu thước.


xuất định, dạy rằng:


Mặc dù dược thảo và thuốc độc

tạo ra kết quả trái ngược nhau,

Nhưng trong bản chất rốt ráo của chúng,

cả hai đều như nhau.

Giống như những thuận duyênnghịch duyên

trên con đường tu tập,

Chúng hữu ích như nhau.

Vì vậy chớ nên phân biệt

Bậc trí giả chẳng chối bỏ điều chi

Cớ sao đứa con tinh thần lại không thừa nhận?

Nếu ngươi bị đánh độc đến năm lần,

Thì cũng bị lạc lối trong luân hồi vậy.


Qua lời giải thích của sư, nhà vua cùng mọi người từ bỏ các kiến chấpý tưởng sai lầm. Họ thấy được niềm tinđồng lòng quy y pháp.


Từ đó, Ghantapa được mệnh danh là “Người giữ chuông”. Danh tiếng của ngài vang dội khắp nơi.


Trong sáu kiếp thuộc đời quá khứ, cô gái luôn là người khiến cho sư phải từ bỏ Phạm hạnh thanh tịnh. Nhưng trong đời này, vì tâm phân biệt của sư không còn nữa; cấu trúc nhị phân trong tâm của ngài đã tan biến trong cảnh giới vô tận của tánh không, nên dòng tâm thức của ngài đã phát triển đến mức cùng tột.


Ghantapa
đặt tên cho con trai của ngài là Vajrapani tức Kim Cương Thủ. Còn cô gái, vợ của ngài, do công đức phục vụ ngài trong nhiều đời nên nay cô cũng thoát khỏi vô minh.


Ghantapa
quyền năng và phẩm tính của một vị Phật.


Hành trì


Một bản dịch khác liên quan đến đạo sư Ghantapa càng làm sáng tỏ những chỗ còn mơ hồ trong truyền thuyết vừa kể trên.


Theo bản dịch này, Ghantapa vốn là con trai của đức vua Nalanda. Ngài không chịu nối ngôi cha lại đi xuất gia thọ giới cụ túc với hoà thượng Jayadeva Subhadra. Sau đó ngài trở thành quốc sư của vua Nalanda.


Ngài gặp Darikapa và được vị này điểm đạo và truyền cho mạn-đà-la Samvara, rồi bảo ngài vào rừng tu tập.


Cho đến một hôm ngài nghe một giọng nói vọng xuống từ trên không trung bảo ngài phải đi đến Oddiyana.


Vị nữ chân sư của ngài vốn làm nghề chăn lợn. Ban đầu ngài tỏ ý từ chối vì bà này dung mạo cực kỳ xấu xí, nhưng sau đó ngài nhận ra bà chính là một Dakini.


một lần nữa, vị nữ chân sư này truyền cho ngài mạn-đà-la Samvara .


Tại cánh rừng già ở Oddiyana, ngài đã xúc phạm đến đức vua khi ngài từ chối đi cùng với nhà vua vào kinh thành.


Cô gái được sai đến để quyến rũ ngài chính là yếu tố còn thiếu trong thiền định của ngài.


Ghantapa
đã điểm đạo cho cô và nhận cô như là một Dakini của ngài.


Mặc dù nhà vua tìm cách nhạo báng nhưng chính thực là Ghantapa vốn vào thành để hoá độ dân chúng.


Tương truyền ngài dùng thần thông hoá hiện ra hai đứa bé, một trai và một gái. Đoạn dùng một cái muỗng lớn chiết rượu ra, rồi sai chúng đi đổ đầy các bình rượu của mọi nhà trong kinh thành.


Sau đó ngài vất cái muỗng xuống đất, khiến nước phụt lên từ một khe nứt. Hai đứa bé biến thành sấm chớp và một cái chuông.


Ngài cùng vợ biến thành hai vị thần Samvara. Điều này giải thích lý do vì sao Omsa là nơi mà Kim cương thừa được truyền bá rộng rãi.


Truyền thuyết đưa ra một chủ đề lớn đề cập đến sự mông muội của một hạng người tự cho rằng cách tư duy của mình là đúng.
Họ chấp chặt vào những nguyên tắc luân lý hữu hạn để kết tội người khác dám có một lối sống vượt thoát khỏi cái thường tình của những quy ước xã hội.


Cô gái Dakini trong tiền kiếp đã từng quyến rũ, cám dỗ Ghantapa. Và trong những kiếp ấy, ngài đều bị trói buộc bởi những mệnh lệnh của luân lý.


Trong đời này, tâm ngài đã thuần thục nên ngài chấp nhận giáo pháp của một Dakini, đồng thời đạt tới giải thoát sau khi trải qua bốn trạng thái an lạc.


Tâm thanh tịnh của ngài đã được ấn chứng bởi Đại thủ ấn nên nhà vua đâu thể hiểu rằng “Tâm hoan hỷ không bao giờ ô nhiễm”.


Nhà vua tự cho mình có lý khi kết tội “một người đàn ông và một người đàn bà sống trong tội lỗi” vì nhà vua không chấp nhận các thanh tịnh khả hữu nơi người khác.


Nếu truyền thuyết nêu rõ rằng thiền định Đại thủ ấn ngăn không cho Ghantapa chấp nhận lời mời của nhà vua thì ở đây thiếu vấn đề trả nghiệp khi nhà vua tìm mọi cách để làm nhục ngài.


Trong giáo pháp sư dạy cho nhà vua và mọi người, ngài đã truyền lại cái mà ngài đã chứng nghiệm: “Chớ ưa thích điều tốt, chớ ghét bỏ điều xấu. Hãy chấp nhận mọi thứ như tự thân của chúng. Hãy thâm nhập vào thực thể để nếm được vị chung của các pháp.”


Nhưng chính điều này Ghantapa đã không nhận ra trong sáu kiếp quá khứ. Ở đây có hai cặp phạm trù đạo đức. Cuộc sống ban đầu của ngài là một bậc tu hành đầy đủ giới đức và sống phạm hạnh, và về sau là cuộc sống của một nhà Du-già phóng khoáng. Hai phương tiện khác nhau nhưng cùng một đích đến.


Điều này hơi nguy hiểm khi các bậc thầy rao giảng truyền thuyết này cho một người đang bám víu vào các tiêu chuẩn đạo đức nhị phân để tu tập tìm sự thanh tịnhtỉnh giác, vì y sẽ nhanh chóng cảm thấy bị hụt hẩng, rơi vào hố thẳm của nghi ngờlầm lẫn.


Tuy nhiên, không có một sự trùng lắp nào cho thấy những con người bị xã hội ruồng rẫyphi đạo đức lại có thể được khai tâm trong môn Tantra này.


Những ý niệm luân lý đôi khi cũng là những trở ngại khó vượt qua để thành tựu Bồ Tát nguyện, vì đôi khi những nguyên tắc này có tính quyết đoán và không thoả hiệp với hành động từ bi

.
Sử liệu


Về mặt lịch sử, Ghantapa là người đồng thời với đệ nhị hoàng đế Devapala (810-830) Nhưng hình như đây không phải là vị vua mà Ghantapa đã xúc phạm.


Devapala
là một đại thí chủ rất hào phóng của tu viện Nalanda. Vào thời ấy, xứ Bengal được gọi là Bengala. Nó gồm cả đông và tây xứ Bengal hiện nay, không kể những phần đất của Bihar.
Kamapara
chính là thành phố tiếp giáp với thung lũng Brahmaputra mà thủ phủ là Pataliputra, gồm cả đông và nam Bihar.


Ghantapa
rất nổi tiếngTây Tạngsự nghiệp khai sáng dòng tu Samvara Pancakrama. Pancakrama bao gồm các phương pháp luyện tập thân thể được Ghantapa đề cập trong mười tám tác phẩm nổi tiếng của ngài và hầu hết những tác phẩm này điều liên quan đến Samvara Tantra.


Ngài nhận được sự khải huyền về Samvara mạn-đà-la từ Kim Cương Thánh Nữ, mà có lẽ bà này chính là người phụ nữ chăn lợn ở Oddiyana, nhưng cũng có thể là nữ Du-già Vilasyavajra, đệ tử của sư Dombipa Heruka.


Trong dòng Mật tông Tây Tạng, đôi khi người ta gác bỏ tên của Dengipa qua một bên, nhưng lại đề cập đến Darikapa như là một chân sư của Samvara. Dòng Kalacakra cũng gồm Ghantapa. Điều này khiến ngài trở nên là một trong những người Ấn Độ đầu tiên được truyền môn Tantra này.


Do đó, có thể kết luận rằng môn Tantra này đã xuất hiện tại Đông Ấn vào khoảng thế kỷ 9.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23062)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26469)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12794)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29592)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27800)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26008)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 15079)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 16282)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 22802)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14636)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12677)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18954)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14795)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43934)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13694)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14635)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 12561)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40485)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 14452)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14168)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39786)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 13903)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 37395)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40104)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 13830)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 37289)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 11790)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22580)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12532)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12585)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13079)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 14857)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 12480)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11981)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11967)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 12400)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 30745)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 31950)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 35463)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27846)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 11500)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31788)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 27147)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 24194)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 30926)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27138)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 28190)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23299)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 23618)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 21632)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 26342)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 13057)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21955)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 14155)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 38079)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 32154)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 28613)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 19640)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant