Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót

03 Tháng Tám 201200:00(Xem: 12118)
01. Đức Bồ Tát Thái Tử Siddhattha đản sanh kiếp chót
Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG TƯ
Soạn giả: Hộ Pháp


ĐỨC BỒ TÁT THÁI TỬ SIDDHATTHA

ĐẢN SINH KIẾP CHÓT

Đức Bồ Tát Thái tử đản sinh kiếp này là kiếp chót.

Vậy kiếp bắt đầu của Ngài từ thuở nào?

Thật ra, từ vô thủy trước khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì không rõ kiếp bắt đầu của Ngài. Khi Đức Bồ Tát phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt hơn đức tintinh tấn, Ngài đã trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi để hoàn thành 30 pháp hạnh ba-la-mật hầu mong chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trong suốt khoảng thời gian bằng một nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt.

10 pháp hạnh ba-la-mật là:

1- Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)

2-  Giữ giới ba-la-mật (sīlapāramī)

3-  Xuất gia ba-la-mật (nekkhammapāramī)

4-  Trí tuệ ba-la-mật (paññāpāramī)

5-  Tinh tấn ba-la-mật (vīriyapāramī)

6-  Nhẫn nại ba-la-mật (khantipāramī)

7-  Chân thật ba-la-mật (saccapāramī)

8-  Chí nguyện ba-la-mật (adhiṭṭhānapāramī)

9-  Tâm từ ba-la-mật (mettāpāramī)

10-  Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)

30 pháp hạnh ba-la-mật chia làm 3 bậc:

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thường nào chỉ có hy sinh của cải tài sản, ngôi báu, thậm chí đến vợ con,… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thường ấy mà thôi; nhưng không liên quan đến những bộ phận trong thân thể và sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc trung nào không những hy sinh của cải bên ngoài mình, mà còn phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như mắt, v.v… để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc trung ấy; nhưng không liên quan đến sự hy sinh sinh mạng của Ngài.

10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng như thế nào?

Đức Bồ Tát tạo pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng nào không những hy sinh những của cải bên ngoài và các bộ phận trong thân thể, mà còn phải hy sinh sinh mạng của Ngài để thành tựu pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy.

Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác có 3 hạng

1-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt (paññādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 7 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 9 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trí tuệ ưu việt.

2-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt (saddhādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 14 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 18 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác đức tin ưu việt.

3-  Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt (vīriyādhikabodhisatta) thời gian tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật gấp đôi thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt, và gấp 4 lần thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm suốt 28 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói suốt 36 a-tăng-kỳ.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tinh tấn ưu việt.

Đức Phật Gotama là Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt. Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật, trải qua 3 thời kỳ:

Thời kỳ đầu: Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Nanda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sunanda asaṅkheyya: Có 9.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Pathavī asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Maṇḍa asaṅkheyya: Có 11.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Dharaṇīasaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Sāgara asaṅkheyya: Có 30.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Puṇḍarika asaṅkheyya: Có 40.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 7 a-tăng-kỳ có 125.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Khi các pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã có đủ năng lực để tiến triển đến thời kỳ giữa.

Thời kỳ giữa: Đức Bồ Tát phát nguyện ra bằng lời nói cho chúng sinh biết ý nguyện của Ngài muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ luân hồi trong ba giới bốn loài, trải qua suốt 9 a-tăng-kỳ như sau:

1-  Sabbabhadda asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

2-  Sabbalulla asaṅkheyya: Có 60.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  Sabbaratanā asaṅkheyya: Có 70.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  Usabhakkhandha asaṅkheyya: Có 80.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

5-  Mānibhadda asaṅkheyya: Có 90.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

6-  Paduma asaṅkheyya: Có 20.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

7-  Usabha asaṅkheyya: Có 10.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

8-  Khandhuttama asaṅkheyya: Có 5.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

9-  Sabbapāla asaṅkheyya: Có 2.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Tổng cộng trong 9 a-tăng-kỳ có 342.000 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian.

* Những tên a-tăng-kỳ (asaṅkheyya) và số lượng Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian được ghi chép trong những bộ Sotattakī, bộ Tathā-gatuppatti, Chiengmai paṇṇāsa, bộ Jinakālamāli mà trong 6 kỳ kết tập Tam TạngChú giải, Phụ chú giải không ghi lại rõ.

Tuy đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật trải qua hai thời kỳ trên, nhưng vì Đức Bồ Tát chưa được một Đức Phật Chánh Đẳng Giác nào thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài vẫn còn là Đức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức Bồ Tát vẫn có thể thoái chí, từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ muốn trở thành Đức Phật Độc Giác hoặc Bậc Thánh Thanh Văn Giác.

Nếu Đức Bồ Tátquyết tâm không lay chuyển, có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, và tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, thì sẽ tiến triển đến thời kỳ cuối.

Thời kỳ cuối: Đức Bồ Tát được Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đạo sĩ Sumedha đã chứng đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền hữu sắc 4 bậc thiền vô sắc; chứng đắc ngũ thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông (thuộc trong tam giới). Một hôm, Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavatī đang vui mừng hoan hỷ sửa sang đường sá. Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống và hỏi rằng:

Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy bà con vui mừng hoan hỷ thế?

Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên thế gian. Chúng tôi đang sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp ngự qua đây.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha” (Đức Phật), tâm vô cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật vô cùng hy hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo duyên lành nơi Đức Phật”.

Đức Bồ Tát Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:

– Thưa bà con, bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh A-ra-hán ngự đến; xin bà con nhường cho bần đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật cùng chư Thánh A-ra-hán.

Dân chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần thông, nên họ chỉ cho Đạo sĩ đoạn đường bùn lầy khó khăn nhất. Đạo sĩ nghĩ rằng:

“Nếu ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ, phước thiện sẽ không nhiều được. Vậy, ta nên tự dùng sức mình để sửa sang, chắc chắn sẽ có nhiều phước thiện vô lượng”.

Đức Bồ Tát dùng sức lực của chính mình, lấy đất từ nơi khác đến để san lấp mặt bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay nữa là hoàn thành.

Khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp đến. Đức Bồ Tát Sumedha quyết định rằng: “Hôm nay ta xin cúng dường sinh mạng của ta đến Đức Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm một chiếc cầu, để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.

Đức Bồ Tát Sumedha suy tư rằng:

Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ trở thành một bậc Thánh A-ra-hán trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta không đành giải thoát khổ riêng một mình ta”.

Nghĩ vậy, với tâm đại bi vô lượng thương xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát nguyện rằng:

“Buddho bodheyyaṃ...” Khi ta tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác rồi; khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán y theo ta vậy (tự giác - giác tha).

“Mutto moceyyaṃ...” Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn rồi; khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn y theo ta vậy (tự độ - độ tha).

“Tinno tareyyaṃ...” Khi ta tự mình vượt qua được biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi; khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy (tự đáo - đáo tha).

Trong khi đó có một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā(1) trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara, nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5 đóa hoa sen, còn lại 3 đóa hoa sen, cô để cúng dường đến Đức Phật. Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán cúng dường đến Đức Phật. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh A-ra-hán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của Đạo sĩ Sumedha; cho nên, sinh mạng của Đức Bồ Tát vẫn an toàn, chẳng hề hấn gì.

Thường Đức Phật Chánh Đẳng Giác chỉ thọ ký lần đầu tiên cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ 8 điều kiện như sau:

1- loài người thật (không phải Long vương hoặc chư thiên hóa thành người).

2-  Là người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).

3-  Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, có thể chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

4-  Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

5-  Là bậc xuất gia Đạo sĩchánh kiến về nghiệp.

6-  Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông tam giới.

7-  Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.

8- ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng, quyết tâm trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha quán xét ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của Đạo sĩ Sumedha có thành tựu hay không. Với trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong kiếp vị lai (anāgataṃsañāṇa), vị Bồ Tát Đạo sĩ này chắc chắn sẽ thành tựu như ý nguyện, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệuĐức Phật Gotama”.

Đức Phật Dīpaṅkara là Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký cho Đức Bồ Tát Sumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị lai. Khi lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật Dīpaṅkara, Đức Bồ Tát phát sinh tâm thiện vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên đồng hoan hỷ chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:

Đạo sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm mống trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai”.

Từ đó, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama tinh tấn không ngừng bồi bổ cho đầy đủ 30 pháp hạnh ba-la-mật trong thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.

4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất(2)

4 a-tăng-kỳ(3)

1-  A-tăng-kỳ thứ nhất: Kể từ Đức Phật Dīpaṅkara đến Đức Phật Koṇḍañña, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhất gọi là Sela asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian.

2-  A-tăng-kỳ thứ nhì: Kể từ Đức Phật Koṇḍañña đến Đức Phật Maṅgala, thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ nhì gọi là Bhāsa asaṅkheyya, có 4 Đức Phật là: Đức Phật Maṅgala, Đức Phật Sumana, Đức Phật Revata và Đức Phật Sobhita tuần tự xuất hiện trên thế gian.

3-  A-tăng-kỳ thứ ba: Kể từ Đức Phật Maṅgala đến Đức Phật Anomadassī thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ ba gọi là Jaya asaṅkheyya, có 3 Đức Phật là: Đức Phật Anomadassī, Đức Phật Paduma và Đức Phật Nārada tuần tự xuất hiện trên thế gian.

4-  A-tăng-kỳ thứ tư: Kể từ Đức Phật Anomadassī đến Đức Phật Padumutara thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ thứ tư gọi là Ruci asaṅkheyya, chỉ có một Đức Phật Padumutara xuất hiện trên thế gian.

100 ngàn đại kiếp trái đất

Trong khoảng thời gian lâu 100 ngàn đại kiếp trái đất, có 14 Đức Phật tuần tự xuất hiện trên thế gianĐức Phật Sumedha, Đức Phật Sujāta, Đức Phật Piyadassī, Đức Phật Atthadassī, Đức Phật Dhammadassī, Đức Phật Siddhattha, Đức Phật Tissa, Đức Phật Phussa, Đức Phật Vipassī, Đức Phật Sikhī, Đức Phật Vessabhū, Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa.

Mỗi khi Đức Phật nào xuất hiện trên thế gian, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đều đến hầu Đức Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đến kiếp áp chót hóa sinh làm thiên nam tên là Setaketu trong cõi trời Tusita; cõi trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới.

Thỉnh Đức Bồ Tát Giáng Thế

Bốn Đức vua trời cõi Tứ Đại Thiên Vương, Đức vua trời Sakka cõi Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Suyāma cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi Đấu Xuất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Vasavatti cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cùng chư thiên 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên các cõi trời sắc giới cùng tụ hội đến hầu Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, Ngài đã tạo đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh ba-la-mật xong rồi. Các pháp hạnh ba-la-mật ấy không phải Ngài để mong ngôi vị các vua trời, cũng không phải để mong sinh làm phạm thiên, cũng không phải để mong ngôi vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương; mà sự thật, các pháp hạnh ba-la-mật ấy là để hỗ trợ Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, bây giờ là đúng lúc, đúng thời kỳ, để cho Ngài trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Kính bạch Đức Bồ Tát thiên nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Ngài tái sinh làm người, để trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư thiên, phạm thiên, Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Ngài quán xét trong thời quá khứ: “Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đã quán xét như thế nào?

Quán xét 5 điều trước khi tái sinh(4).

Theo lệ thường Chư Bồ Tát kiếp chót tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cần phải quán xét đầy đủ 5 điều như sau:

1-  Quán xét thời kỳ tuổi thọ con người: Đức Bồ Tát Setaketu quán xét thấy tuổi thọ con người vào thời kỳ ấy khoảng 100 năm, thích hợp đối với Đức Phật Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt.

2-  Quán xét châu đến tái sinh: Trong 4 châu loài người, cõi Nam Thiện Bộ Châu là châu mà Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

3-  Quán xét xứ sở đến tái sinh: Trong cõi Nam Thiện Bộ Châu rộng lớn, Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong Trung xứ vùng Sakka kinh thành Kapilavatthu.

4-  Quán xét dòng họ nơi tái sinh: Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh trong dòng họ Sakya, Đức vua Suddhodana trải qua nhiều đời vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác).

5-  Quán xét mẫu thân và tuổi thọ của bà: Bà Mahā-mayādevī chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana là người có giới hạnh trong sạch. Bà từng tạo pháp hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp và được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký rằng: “Bà sẽ là Mẫu thân của Đức Phật trong thời vị lai”. Bà chánh cung Hoàng hậu có tuổi thọ còn đúng 10 tháng 7 ngày. Đức Bồ Tát kiếp chót chọn bà Mahāmayādevī làm Mẫu thân của Ngài.

Sau khi quán xét thấy đầy đủ 5 điều rồi, Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu quyết định tái sinh xuống làm người để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Bồ Tát Thiên nam Setaketu truyền dạy rằng:

Này chư thiên, chư phạm thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái sinh xuống làm người trong cõi Nam Thiện Bộ châu, Trung xứ, kinh thành Kapilavatthu, trong dòng vua Sakya, Đức vua Suddhodana là phụ thân và bà Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, làm mẫu thân của ta”.

Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, tất cả chư thiên và chư phạm thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu, rồi cùng nhau xin phép trở về cảnh giới của mình. Chư thiên, chư phạm thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng sinh biết rằng:

Đức Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!

 

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Tái Sinh Làm Người

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu quyết định từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên) sẽ tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana, kinh thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.

Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī của Đức vua Suddhodana đến hầu vị Đạo sư Kāḷadevila xin thọ trì uposathasīla (bát giới). Canh chót đêm ấy, trước khi Đức Bồ Tát tái sinh đầu thai vào lòng bà Mahāmayādevī, bà nằm mộng thấy Tứ Đại Thiên Vương cung nghinh bà lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 chánh cung Hoàng hậu của Tứ Đại Thiên Vương cùng chư thiên nữ đến tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó. Khi ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi bà đang nằm nghỉ. Con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi bà nằm 3 vòng, rồi chui vào hông phía bên phải của bà.

Khi Mahāmayādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời Tusita (Đâu Suất Đà Thiên), đồng thời với đệ nhất đại quả tâm (đại quả tâm thứ nhất hợp với trí tuệ đồng sinh với hỷ, không cần động viên) làm phận sự tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevī, nhằm vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm lịch). Khi ấy, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày(5). Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ; chư thiên, phạm thiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:

Đức Bồ Tát đã tái sinh rồi!

Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī đã trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức vua Suddhodana và tâu trình lên Đức vua về giấc mộng của bà.

 Sáng sớm hôm sau, Đức vua Suddhodana bèn truyền lệnh cho mời nhóm Bà-la-môn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm qua của chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī cho nhóm quân sư Bà-la-môn nghe để họ cùng nhau suy đoán.

Đức vua truyền hỏi rằng:

Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho Trẫm được rõ.

Một vị Bà-la-môn trưởng bèn tâu rằng:

Muôn tâu Đại vương, xin Đại vương an tâm, chánh cung Hoàng hậu đã thụ thai, thai nhi không phải là Công chúachắc chắnThái tử, Bậc cao thượng nhất.

Nếu Thái tử sống trong triều, thì sẽ là Đức Chuyển Luân Thánh Vương trị vì thiên hạ có 4 biển làm ranh giới.

Nếu Thái tử bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh.

Từ khi Đức Bồ Tát kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân, do oai lực của Đức Bồ Tát, nên ngày đêm Tứ Đại Thiên Vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính; không phải theo hộ trì bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī; bởi vì, Đức Bồ Tát kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại bà được.

Mẫu thân của Đức Bồ Tátgiới đức tự nhiên, bà không phải đến làm học trò vị Đạo sư Kāḷadevila, để xin thọ giới như trước đây nữa; thân và tâm của bà thường an lạc. Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức vua Suddhodana nhìn thấy bà liền phát sinh thiện tâm trong sáng, do đó Đức vua rất tôn trọng bà.

Đức Bồ Tát phát triển và tăng trưởng ở trong bào thai mẫu thân, như ở trong một căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức Bồ Tát ngồi kiết già như vị Pháp sư đang ngồi trên pháp tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.

Đức Bồ Tát Kiếp Chót Đản Sinh

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī biết gần đến ngày đản sinh Thái tử, bà đến chầu Đức vua Suddhodana bèn tâu rằng:

Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về Cố quốc Devadaha để hạ sinh Thái tử.

Đức vua chuẩn tấu lời xin của bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ xứ Kapilavatthu cho đến xứ Devadaha, để làm lễ tiễn đưa chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī trở về cố quốc; Đức vua còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho bà ngự đi.

Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Devadaha. Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī, hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī muốn dừng kiệu lại, ghé vào vườn Lumbinī, để du lãm. Các quan tuân lệnh dừng kiệu.

Khi bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự vào vườn Lumbinī, hôm ấy chư thiên, chư phạm thiên tụ hội tại khu vườn, và cả vạn thế giới chúng sinh vui mừng reo hò rằng:

Hôm nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức Bồ Tát sẽ đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī”.

Chư thiên, chư phạm thiên, tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời, những đóa hoa trời, nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức Bồ Tát cùng với những chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.

Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī ngự đến một cây Sālā có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành cây tự nhiên sà xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng rất đẹp và rất vững vàng, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi bà đang đứng; khi ấy, Đức Bồ Tát cao thượng đản sinh ra đời khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahā-mayādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay, toàn thân mình sạch sẽ ra sau, một cách suôn sẻ an lành cho cả Đức Bồ Tát lẫn mẫu thân của Ngài. Lúc đó, vào ban ngày của ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm lịch). Khi ấy, một dòng nước ấm và một dòng nước lạnh từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức Bồ Tátmẫu thân của Ngài.

Khi Đức Bồ Tát cao thượng vừa ra khỏi lòng bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī, trước tiên 4 vị Đại Phạm Thiênthiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức Bồ Tát xong, rồi đặt trước mặt bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī và tâu rằng:

Muôn tâu chánh cung Hoàng hậu, xin bà phát sinh tâm hoan hỷ! Đây là Thái tử của bà, cũng là Đức Bồ Tát kiếp chót cao thượng. Ngài là Bậc đại phước, có nhiều oai lực nhất trong tất cả chúng sinh trong tam giới.

Sau đó, Đức Bồ Tát từ trên tay 4 vị Đại Phạm Thiên được trao sang cho 4 vị Tứ Đại Thiên Vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại; một lần nữa, Đức Bồ Tát từ tay 4 vị Tứ Đại Thiên Vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.

Khi ấy, Đức Bồ Tát từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng của Ngài, Đức Bồ Tát đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư thiên dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Tiếp đến, Đức Bồ Tát quay mặt nhìn về hướng Nam ... hướng Tây... hướng Bắc... hướng Đông Nam... hướng Tây Nam ... hướng Tây Bắc... hướng Đông Bắc trong tám hướng, mỗi hướng chư thiênnhân loại đều dâng hoa cúng dường Đức Bồ Tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong tất cả chúng sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư thiên, chư phạm thiên đều dâng hoa tán dươngca tụng rằng:

Kính bạch Đức Đại Nhân, trong số chư thiên, chư phạm thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có chư thiên, chư phạm thiên nào cao thượng hơn Ngài.

Đức Bồ Tát đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Ngài bước bằng chân phải(6). Khi Đức Bồ Tát bước đi, Vua trời phạm thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Ngài, Đức vua Suyāma cầm quạt lông, còn 3 thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi vị Vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức Bồ Tát. Đó là 5 bảo vật của lễ phong vương.

Đức Bồ Tát dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư thiên, chư phạm thiên đều bảo với nhau rằng:

Bây giờ, Đức Bồ Tát cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng”.

Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức Bồ Tát dõng dạc truyền dạy rằng:

Ago’ ham’ asmi lokassa!

 Jeṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Seṭṭho’ ham’ asmi lokassa!

 Ayamantimā jāti

 Natthi dāni punabbhavo”.

Ta là Bậc Cao Cả nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Vĩ Đại nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Ta là Bậc Tối Thượng nhất, trong toàn cõi thế giới chúng sinh!

 Kiếp này là kiếp chót của ta

 Ta không còn tái sinh kiếp nào khác nữa!”

Chư thiên, chư phạm thiênnhân loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca tụng Đức Bồ Tát.

Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là quả của nghiệp thiện mà Đức Bồ Tát đã tạo và tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ, hoàn toàn không liên quan huyết thống của Đức vua Suddhodana và chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hay dòng dõi Sakya.



1 Nữ Bà-la-môn Sumittà chính là tiền kiếp của Công chúa Yasodhara.

2 Tìm hiểu rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” (trang 38) cùng một soạn giả.

3 Asankheyya: A-tăng-kỳ có 4 loại:

1-  Gaṇana asaṅkheyya: A-tăng-kỳ tính bằng số là số 1 theo sau 140 số 0, viết tắt: 10140.

2-  Anumāna asaṅkheyya: A-tăng-kỳ ước lượng. Ví dụ: Trời mưa trên toàn mặt đất suốt 3 ngày, ước lượng a-tăng-kỳ số giọt mưa rơi xuống mặt đất.

3-  Kappa asaṅkheyya: A-tăng-kỳ kiếp có 4 loại:

Āyukappa: Kiếp tuổi thọ.

Antarakappa: Khoảng thời gian kiếp giảm còn 10 năm và kiếp tăng đến a-tăng-kỳ năm.

Asaṅkheyya kappa: A-tăng-kỳ kiếp trái đất hoại rồi thành trở lại.

Mahākappa: Đại kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ: a-tăng-kỳ hoại kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ không kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ thành kiếp trái đất ® a-tăng-kỳ trụ kiếp trái đất.

4-  Buddha asaṅkheyya: A-tăng-kỳ thời gian tạo ba-la-mật để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác không thể tính bằng số lượng. Thời gian trải qua vô số đại kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không không thể tính được, như vậy gọi Buddha asaṅkheyya.

Ví dụ: Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha cần phải bồi bổ thêm 30 pháp hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, để trở thành Đức Phật Gotama.

4 Xem rộng trong Nền Tảng Phật Giáo quyển I “Tam Bảo” trang 52-53 cùng một soạn giả.

5 Theo bộ Samantacakkhudipani.

6 Theo thói quen, Đức Phật bước chân phải trước tiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11281)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10711)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11320)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10015)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10458)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10624)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 10706)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11324)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10633)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13460)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12376)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11025)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10619)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12313)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11171)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11847)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 9216)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10244)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10588)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10805)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 11875)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 10445)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10428)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10788)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 10153)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10283)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10649)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10696)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11474)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18261)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10522)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12848)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11752)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 13323)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 11580)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 14482)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11808)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11490)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 12035)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 11962)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14231)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13348)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12073)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10407)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11232)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13313)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant