Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thơ Kệ Tổ Sư Liễu Quán

08 Tháng Ba 201400:00(Xem: 12974)
Thơ Kệ Tổ Sư Liễu Quán


THƠ KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN (1667 – 1742) 

Thích Liễu Nguyên (thi hóa)

to_lieu_quan

Ảnh: Tổ Sư Thiệt Diệu – Liễu Quán
(1667 – 1742)

 

THÂN THẾ

Phú Yên, Bạch Mã, Đồng Xuân
Địa linh, đất ấy đã sanh Thánh hiền
Vào nămĐinh Mùi (1667) thiện duyên
Thánh nhân Thiệt Diệu sanh tiền họ Lê.

Lúc lên sáu tuổi ở quê
Mẹ hiền quá vãng, muôn bề nhớ thương
Thấy rỏ, vạn pháp vô thường
Xuất trần thượng sĩ, rộng đường tiến tu.

 

XUẤT GIA

Theo cha học đạo Tổ sư (lúc 12 tuổi)
Tế Viên Hòa thượng, ở chùa Hội Tông
Sau ra cầu pháp Giác Phong
Hàm Long, Báo Quốc, đằng Trong kinh thành.

 

BÁO HIẾU

Theo chân Lão Tổ tu hành
Năm sau (1691) thân phụ bệnh đành về quê
Phụng dưỡng thân phụ ở quê
Ngày ngày gánh củi miền quê qua ngày.

Bốn năm báo hiếu tháng ngày
Đến khi thân phụ sanh ngày Lạc Bang
Một thân, một bóng phương ngàn
Trèo đèo vượt suối trở về Huế (1695) đô.

 

THỌ GIỚI

Nhằm năm Đinh Sửu (1697) Kinh Đô
Thọ Cụ Túc Giới ở chùa Từ Lâm
Thạchh Liêm Lão Tổ quang lâm
Đàn đầu hòa thượng truyền tâm giới điều.

Từ đây thân y giới điều
Vân du vấn đạo ở nhiều bốn phương.
Năm Nhâm Ngọ (1702) tại Long Sơn.
Tử Dung tryền ấn Tâm ngời Tuệ soi.

ĐẮC PHÁP
Ý: TổTử Dung & Tổ Liễu Quán
Thơ: Liễu Nguyên

Kỷ mão (1699) đi khắp đó đây
Tìm thầy học đạo thoát ngay luân hồi.
Năm Nhâm Ngọ (1702) gặp Thầy rồi.
Tử Dung hòa thượng, đổi đời từ đây.

Tử Dung hỏi chổ hiển bày
“Muôn pháp về một, một về nơi đâu?”
Hãy luôn tu quán thật sau
Thì ngươi thấy rỏ trước sau ngọn ngành.

Vâng lời Tổ ấn tu hành
Bao năm khổ quán chẳng thành ,thẹnđau
Truyền Đăng Lục đọc đến câu
“Chỉ vật truyền Tâm, nhân bất hội xứ”

Nghĩa rằng ứng vậttỏ Tâm
Chẳng ai hiểu thấu khi Tâm rỏvật
Tâm ngộ pháp lạc, tịnh mật
Muốn mang pháp chứng cẩn bạch Tử Dung.

Nhưng vì cách trở muôn trùng
Đến năm Mậu tý (1708) mới cùng tổ xem
Tử Dung hoan hỷ xét xem
Sau rồi Tổ dạy cho thêm pháp mầu.

Tử Dung hỏi tiếp mấy câu
“Bờ thắm buôn tay, một mình cam chịu”
Tiếp tục Tử Dung dắt chìu
“Chết rồi sống lại, chê mình ai dám?”

Liễu Quán! vổ tay! trình đáp:
Trái cân là sắt,hợp pháp chưa thầy?
Tu Dung đám lại chưa đầy
Hôm sau gọi lại Tổ bày hỏi thêm.

Hôm qua việc vẫn chưa êm
Hôm nay Ngươi hãy trình thêm rỏ ràng
Biết đèn là lữa,đằng đằng
Cơm chín từ lâu , thưa rằng được chưa?

Nghe xong lời kệ trình thưa
Tử Dung hoan hỷquá ưa, gật đầu
Nhâm thìn (1712) vào hạ không lâu
Quảng Nam, lễ hội cùng nhau tắm Phật.

Tử Dung hỏi Sư ý Phật
“Phật Phật truyền nhau, Tổ Tổ truyền trao”
“Chẳng biết truyền nhau cái gì?”
Nghe lời tổ hỏi những gì, Sư thưa.

Liễu Quán cung kính thưa Ngài
Búp măng mộc trên đá dài muôn trượng
Chưa hết Sư tiếp khiêm nhường
Mai rùa long mọc nặng nhường ba cân

Tử Dungđáp lạiân cần
Ngựa đua dưới nước thuyền vần trên non
Nghe lời Tổ dạy sắt son
Liễu Quán đáp lại, Con còn mấy câu.

Đứt dây,đàn vọng đêm thâu
Gãy sừng trâu rống thâu đêm chốn cùng
Nghe xong tổ thấy ung dung
Từ nay Pháp Phật dung dung tổ truyền.

 

NGUYÊN TÁC

Nhâm Ngọ (1702) Minh Hoàng Tử Dung dạy Sư quán yếu chỉ sau:

Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Gần 8 năm tham cứu mà chưa lãnh hội, trong lòng Sư tự lấy làm hổ thẹn [7]. Một hôm, nhân đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu:

Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ (Chỉ vật truyền tâm, người không hiểu rõ được)”, thoạt nhiên Sư tỏ ngộ được yếu chỉ của Thiền.Vì núi sông cách trở, Sư chưa thể đến đến trình kệ với Tổ Tử Dung được.

Mãi đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), 42 tuổi, Sư Liễu Quán lại trở ra chùa Ấn Tôn (Từ Đàm – Huế) cầu Thiền sư Tử Dung ấn chứng.

Sư đem hiểu biết của mình trình bày ra, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thì nghe Thiền sư đọc:

Huyền nhai tán thủ,

tự khẳng thừa đương,

Tuyệt hậu tái tô,

khi quân bất đắc

(Hố thẳm buông tay,

Một mình cam chịu

Chết rồi sống lại,

Ai dám chê mình ?)”

Minh Hoằng Tử Dung: Vậy là thế nào, nói nghe?

Thiệt Diệu Liễu Quán: Không đáp, chỉ vỗ tay cười ha ha.

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa phải.

Thiệt Diệu Liễu Quán: Bình thùy nguyên thị thiết (Trái cân vốn là sắt).

Minh Hoằng Tử Dung: Chưa nhằm.

Minh Hoằng Tử Dung: Hôm qua việc đã chưa xong, nói lại xem!

Thiệt Diệu Liễu Quán:

 

Tảo tri đăng thị hỏa,

Thực thục dĩ đa thì!

(Sớm biết đèn là lửa,

Cơm chín đã lâu rồi!)”

Minh Hoằng Tử Dung: Thầm khen gật đầu.

Mùa hạ,Nhâm Thìn (1712), Thiền sư Tử Dung vào Quảng Nam dự lễ "Toàn viện" (theo văn bia). Nhân đó, Sư Liễu Quán đem trình bài kệ "Dục Phật" (Tắm Phật). Minh Hoằng Tử Dung hỏi:

Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật truyền nhau; chẳng hay truyền trao nhau cái gì?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,

Quy mao phủ phất trọng tam cân.

(Búp măng trên đá dài một trượng,

Cây chổi lông rùa nặng ba cân)”

Minh Hoằng Tử Dung:

Cao cao sơn thượng hành thuyền

Thâm thâm hải để tẩu mã.

(Chèo thuyền trên núi cao,

Phi ngựa dưới đáy bể)

Rồi hỏi: Là sao?

Thiệt Diệu Liễu Quán:

Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống

Một huyền cầm tử tận nhật đàn.

(Trâu đất gãy sừng rống suốt đêm.

Đàn tranh đứt dây gẩy trọn ngày)”

Trích dẫn từ:http://vi.wikipedia.org

 

HOẰNG HÓA

Kế thừa tổ ấn trao truyền
Y tam thừa giáo, chèo thuyền độ tha
Đằng Trong nước Việt bao la
Chánh hưng Phật giáo sáng ra năm nào.

Thiền Tôn khai trụ nương vào (Nhâm Dần 1722)
Quí sửu (1733), Giáp Dần (1734), Ất Mão (1735) thiện duyên
Bốn Đại Giới Đàn dự truyền
Tiếp tăng độ chúng hưng thiền chánh Tông.

Ngồi tòa Bát Nhã Tánh Không
Canh Thân (1740) Đại Giới Long Hoa, Ngài truyền.
Chánh pháp tỏa khắp mọi miền
Võ Vương – Chúa Nguyễn (1738 – 1756)nghe tiếng ban truyền .

Chúa sai quan đến thỉnhliền
Mời Ngài vào phủ, dịp chiêm bái Ngài.
Nhưng vì thích cảnh liên đài (lâm tuyền)
Ngài xin ở lại chốn đài Viên Thông.

Dưới núi Ngự Bình đồi thông
Nhiều lúc Chúa ngự vào trong vấn Thiền.
Mùa thu lá rừng trước hiên
Báo tin nhập diệt mặc nhiên trở về.

Viên Thông chốn tịnh thanh khê
Ngài phó chúc kệ mọi bề bảo ban
Ngài dạy đồ chúng nên làm
Y theo giới luật tu bằng tinh chuyên.

Chúng tăng vâng lời Ngài truyền.
Kế thừa chánh pháp, làn truyền thịnh hưng
Năm Nhâm Tuất (22/11/1742) hiệu cảnh hưng
Sau thời cúng ngọ bổng dưng Ngài truyền.

Giờ Mùi đồ chúng kính tuyên
Ngài ngồi kiết tọa an nhiên Niết bàn
Đồ chúng tiếp độ muôn ngàn
Bốn chín đệ tử nối truyền pháp Tông.

Hay tin chúa Nguyễn ban phong
Hiệu là: Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng
Quý hợi (19/2/1943) nhập tháp một phương
Thiên Thai Thiền Tôn ngát hương tháp Ngài.

THƠ KỆ PHÚ CHÚC NIẾT BÀN
Sáng ngộ: Tổ Sư Liễu Quán


Hán Việt:

Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc duyệt dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.

Việt Dịch:

Hơn bảy mươi năm trong thế giới
Không không sắc sắc thảy dung thông
Sáng nay mãn nguyện về quê cũ
Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông

Trích nguồn: Web Tosuthien.net

thap_to_lieu_quan

Ảnh: Tháp Tổ Liễu Quán Tại núi Thiên Thai Thiền Tôn (Huế)

 

DÒNG KỆ TRUYỀN THỪA THIỀN PHÁI LIỄU QUÁN
Sáng kệ: Lâm Tế đời 35 Tổ sư Liễu Quán


Hán Việt:

Thật Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong.

Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công.

Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chân Không.

 

Việt dịch:

Đường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng.

Giới định phước tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công.

Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chánh tông
Hành giải song song
Đạt ngộ chân không.

(Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)

 

THƠ HÓA: DÒNG THÁNH KỆ TỔ SƯ LIỄU QUÁN

 Dòng kệ: Tổ Sư Liễu Quán
Hóa thơ:Thích Liễu Nguyên

Thật: Chơn Không – Bát Nhã hằng nương
Tế: Từ Bi cứu độ muôn phương nương nhờ
Đại: Hoa Nghiêm cùng khắp vô bờ
Đạo: Sanh Phương Tiện giải, tu thời thoát ly.

Tánh: Phật tánh chiếu khắp mọi khi
Hải: Bao la biển Tuệ đến đi không còn
Thanh: Thanh tịnh ba nghiệp vuông tròn
Trừng: Rỏ Tâm thấy pháp, chẳng còn tâm si

Tâm:Dụng Tâm hợppháp mọi khi.
Nguyên:Bản lai vạn pháp không hai khắp cùng
Quảng:Bao la phổ độ muôn trùng
Nhuận: Thấm nhuần pháp Phật trùng trùng hóa sanh.

Đức: Từ Bi tánh đức Phật ân.
Bổn:Góc Tâm có Phậtdiệu chân rạng ngời.
Từ:
Từ BiTrí Tuệ muôn đời
Phong: Trụ nhân cốt cách thảnh thơi tu trì.

Giới: Chiếc áo lành mặc mọi khi
Định: Luôn theo chánh pháp tu trì bình an.
Phước: Quả thiện hưởng phước lạc ban
Huệ: Sáng soi thường chiếu xóa tan mê mờ.

Thể: Nơi chổ hoạt dụng nương nhờ
Dụng: Hợp cùng Thể Tướng sờ sờ khắp nơi
Viên: Cả ba hợp nhất muôn đời
Thông:Chẳng ai cản được Pháp thời duyên sanh.

Vĩnh: Từ vô thỉ, pháp vô sanh
Siêu: Vượt lên Tam giới vô sanh nẻo về
Trí:Thấu rỏ vạn pháp mọi bề
Quả: Sanh từ Phước Trí đề huề lạc ban.

Mật: Trong pháp mật hiện muôn vàn
Khế:Tam thời khế hợp vượt ngoài thời gian
Thành:Quả thiện nay đã viên mãn
Công: Làm nhiều công quả thiện an sau này.

Truyền:Thừa truyền chánh pháp lý đầy
Trì: Tu trì pháp Phật, truyền đầy thế nhân.
Diệu: Đầy đủ lý của pháp nhơn
Lý:Khế hợp Diệu ấy thiện nhân tu hành.

Diễn: Xiển bày chánh pháp rành rành
Xướng: Ngợi ca pháp Phật thực hành đồng tu
Chánh: Nẻo đúng hướng dẫn kẻ ngu
Tông:Chính là Tông Phật vân du truyền thừa.

Hạnh:Thực hành hạnh nguyện Tam thừa.
Giải: Liễu tri vạn pháp BaThừa đồng quy
Tương: Tâm hợp chánh pháp mọi khi
Ứng: Ứng theo phương tiện tức thì ngộ ra.

Đạt: Đạt đến chổ vốn Không Ta
Ngộ: Thấy rỏ Ngũ Uẩn thoát ra luân hồi
Chơn: Có ngay trong pháp luân hồi
Không:Thiệt, không, thường,có ba thời chẳng sai.

 

KHỞI NGUỒN LIỄU QUÁN THẬT TÔNG
Thơ: Liễu Nguyên

Một chữ nối Pháp một đời
Pháp Phật truyền thừa bao thời Tổ trao
Bốn mươi hai chữ 42 đời
Xuất gia, Phật tử rạng ngời chánh Tông.

Khởi nguồn Liễu Quán Thật Tông
Đời sau Không kệ,cùng Tông Niết bàn
Trùng trùng đắc pháp muôn ngàn
Thân y giới luật, lạc bang hướng về.

Pháp Phật là cánh đồng quê
Bao la pháp lạc bốn bề đồng tu
Lục độ, Bồ Tát vân du
Rộng truyền Phật pháp nẻo cùng chốn mê.

Nhớ núi Linh Thứu Thánh quê
Phật trao Ca Diếp khởi bề ấn tông
Chánh pháp Phật tổ dung thông
Đến nay nhân loại rỏKhông baothời.

Muôn đời chánh pháp rạng ngời
Phật Phật hạo hạo, vạn đời truyền trao
Pháp luân thường chuyển đẹp sao
Đương lai Di Lạc tiếp trao Pháp thiền.

Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh.
Mam mô Mô Tây Thiên Đông Độ, Việt Nam Du Hóa Lịch Đai TổSư chứng minh.
Nam mô Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Ngũ Thế Viên ThôngThiên Thai Thiền Tôn Tự Thiệt Diệu Liễu Quán Tổ Sư Chứng minh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11078)
Thơ ca trong nền văn học Việt Nam là nét đẹp trong nếp sống của người dân.Thơ ca dong ruỗi cùng người trong suốt chặng đường đời vui buồn.
(Xem: 8579)
Lời xưa thánh triết, Minh sư trao truyền, Thành tâm tự ngộ, Xa dần đảo điên.
(Xem: 8375)
Em về Bát Nhã tinh khôi, Đêm xanh diệu pháp trăng đồi thúy hoan, Gió ru bướm mộng phương ngàn, Rừng cây cỏ thức giăng hàng đuốc hoa.
(Xem: 22441)
Trần gian quán trọ đời mình Đến chơi một chút thình lình rồi đi Trăm năm tay giữ được gì Có mang xuống dưới âm ty bạc vàng?
(Xem: 14365)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 8841)
Khi cho ra đời thi phẩm Đoạn Trường Vô Thanh, có thể Phạm Thiên Thư cũng ngầm tự ví mình như là một Nguyễn Du thời đại...
(Xem: 9794)
Vâng lời Thầy con đi quét lá, Lá vàng rơi lả tả khắp nơi. Lá khô rơi như kiếp một con người, Giờ phút cuối là về cùng cát bụi...
(Xem: 7946)
Chiều nay nắng ghé sân chùa, Đậu lung linh đủ để vừa đề thơ, Nắng vờn vạt áo thiền sư, Hình như nắng thích phù du đường trần.
(Xem: 12106)
Nét cong tuyệt mỹ cỗi rồi, Lá vàng mới khóc tiễn đời lá xanh, Tượng vàng chùa đất tâm thanh, Hào quang vần vũ tỏa quanh gốc tùng...
(Xem: 17249)
Nhón chân trong cõi hư vô, Vời trông quê mẹ mấy bờ ruộng thưa? Cúi nhìn ngọn cỏ đong đưa, Chắp tay xin một hạt mưa giữa trời.
(Xem: 8209)
Nếu ngày sẽ trôi qua, Thì kiếp người ngắn ngủi, Có đôi lúc hờn tủi, Phải buông xả, bao dung...
(Xem: 8465)
Nhìn vô tác, Thấy tỏ tường, Vọng tưởng hóa Chân Như, Cực lạc quyện từ bi, Ánh Viên Giác hốt nhiên trùm khắp chốn, Giữa vầng trăng, Một niệm vô ngôn.
(Xem: 10667)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10408)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10100)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 10579)
Không làm chẳng nói, Có nói chăng chỉ nói với mình, Bình sinh một đời Tri Âm mấy kẻ, Tri Kỷ mấy người chia xẻ tâm tư!
(Xem: 7765)
Nguồn sức mạnh của trẻ thơ, Chính là tiếng khóc bất ngờ kêu la. Nguồn sức mạnh của đàn bà, Là cơn phẫn nộ bùng ra tức thời.
(Xem: 7229)
Nắng hồng rực rỡ trời mây, Chim muông ríu rít, cỏ cây rộn ràng, Hào quang chói lọi ánh vàng, Theo chân Đức Phật lên đàng sáng nay
(Xem: 11333)
Chiều tối, trời vào thu; Con về đây thăm Mẹ, Mẹ nằm đó, xác thân chừ biến đổi, bao người nằm bên Mẹ cũng thay đổi sắc màu theo định luật diệt sinh.
(Xem: 6895)
Thuở xưa ở dãy Tuyết Sơn, Có chim oanh vũ dễ thương, hiền hòa, Vì cha mẹ bị mù lòa, Một mình chim phải bay ra khu rừng
(Xem: 7660)
Thuở xưa có một nhà buôn, Nghe lời biển gọi, căng buồm ra khơi, Nổi trôi buôn bán khắp nơi, Ghé bờ xa lạ, sống đời lênh đênh.
(Xem: 22668)
Đôi khi đời đau khổ, Tập thở nhẹ và cười, Nếu không làm như thế, Chỉ thiệt mình mình thôi...
(Xem: 20215)
Ta bước xuống trần gian tìm đâu đó, Những ưu tư những ước nguyện thật gần...
(Xem: 9768)
Sáng nay hoa sen thắm nở, Nâng chân Bồ Tát vào đời, Một vầng thái dương rạng rỡ, Bao trùm vạn vật nơi nơi.
(Xem: 8145)
Cách nay trên hai ngàn năm, Là ngày thế giới hân hoan chào mừng, Một bậc mãn phúc kinh luân, Đoạn trừ kiết trược giáng trần độ sinh...
(Xem: 11279)
"Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thị nhân hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai"
(Xem: 8435)
Ai Tư Vãn là bài văn tế của Ngọc Hân công chúa bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng là Vua Quang Trung.
(Xem: 8426)
Đêm chưa ngủ nghe dòng thác đổ, Nghiêng bờ vai nghe tiếng muôn trùng, Nghe tiếng khóc của bầy con trẻ, Nghe bình minh tràn ngập mùa xuân
(Xem: 9539)
Me suối mát thiên thu đời con tắm, Mẹ hoa thơm tươi thắm cả vườn xuân, Mẹ trăng thanh huyền diệu khắp trần gian, Mẹ gió thoảng giữa vô vàn oi bức...
(Xem: 7897)
Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca tập hợp những dòng thơ của Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 11348)
Nửa khuya đức Phật vào đời, Trong đôi cánh hạc tuyệt vời lên trăng, Cành hoa muộn nở ngoài sân, Thoảng hương xa, Phật đến gần trong hương... Trụ Vũ
(Xem: 9560)
Ngày rằm tháng bốn vô vi, Con về trước mẹ mà quỳ lệ rơi, Trên cao Phật đản hoa trời, Dưới chân có kẻ lặng rơi nỗi niềm… Nguyễn văn Nhị
(Xem: 10018)
Khi Ta thành đạo Bồ đề, Băm hai tướng tốt đề huề tụ thân, Hào quang vô lượng sáng ngần, Chúng sanh ai cũng được phần như Ta... Vi Tâm
(Xem: 7294)
Sáng nay sương động trên cành, Mà như nước mắt lanh đanh phương nào, Tuổi thơ chưa biết ước ao, Mà nay nỗi khổ ba đào ập lên... Thích Liễu Nguyên
(Xem: 9371)
Tuyển tập gồm Thơ, Truyện ngắn, tản bút, Tư tưởng, kinh nghiệm Thiền… Viết từ 1989 đến 2005... Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
(Xem: 19271)
Hiệu danh Tự Tại là tôi, Bồ Tát là vị, Như Lai là lòng, Tu hành đã được viên thông, Nguyện đi quảng pháp khắp vùng thế gian... Vi Tâm
(Xem: 8178)
Hôm nay Phật Đản trở về, Ta Bà hiện cảnh hoàng quê năm nào, Từ trời Đâu Xuất trên cao, Hộ Minh Bồ Tát nguyện vào Phật (ứng) thân... Thích Liễu Nguyên
(Xem: 9517)
Bạn hiền ơi, nhớ nhé! Sống hãy mở lòng ra, Nhận chân lời Phật dạy, Hạnh phúc sẽ nở hoa... Hàn Long Ẩn
(Xem: 29063)
Cuộc đời sắc sắc không không, Chỉ xin ta sống thật lòng với nhau, Sống cho có trước có sau, Cõi âm ta lại gặp nhau thôi mà!... Nguyễn Thành Dũng
(Xem: 19695)
Một thường lễ kính chư Phật, Lễ Phật, tâm Phật dung Phật tuệ sanh, Kính Phật phước đức an lành, Nguyện làm Bồ Tát dưới chân Phật đài... Thích Liễu Nguyên
(Xem: 7519)
Biền biệt đường bay, Mịt mờ dấu lặng, Tiếng ai gào thống thiết giữa đau thương... Hàn Long Ẩn
(Xem: 8825)
Phật tử cầu Sư, hỏi đạo Thiền, Sư ngồi tịnh tọa cười an nhiên, Chưa hiểu Phật tử liền gặng hỏi, Sư đứng dậy đi với ý Thiền... Liễu Nguyên
(Xem: 9279)
Ta nhốt ta trong lâu đài trú ẩn, Bởi ngôn từ và kiến thức đoanh vây, Những kinh nghiệm chập chờn bao phủ, Ánh mặt trời không lọt nổi kẽ tay... Hàn Long Ẩn
(Xem: 11162)
Ngày xưa nước bồ kết gội, Chiều về buông xõa tóc hương, Sáng nay cam lồ tịnh thủy, Tâm bồ đề lộ kiên cường... Thơ: Nhất Hạnh; Nhạc: Tịnh Thủy; Thiền ca: Chân Pháp Khôi
(Xem: 8037)
Bốn chị em lâm cảnh đời bất hạnh Linh, Huyền, Trang, Thu bé bỏng Quảng Bình Con nhà nghèo lâm nghiệt ngã điêu linh...
(Xem: 11212)
Tập thơ Thanh Âm Cuộc Lữ của Hàn Long Ẩn
(Xem: 7753)
Xuân về đất khách đẹp bao la, Toàn thể bà con người Việt ta, Buồn tiễn Rắn đi, lời tạm biệt, Vui chào Ngựa đến, tiếng hoan ca... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 7951)
Ngựa nòi giống tốt và thông minh là tiền thân Đức Phật. Vị quốc vương là ngài Ananda. Người cưỡi ngựa là ngài Xá Lợi Phất...
(Xem: 8907)
Thầy là một bậc chân tu, một cao tăng thạc đức. Thầy dày công đóng góp sâu rộng cho Phật Giáo... Tâm Thường Định
(Xem: 9528)
Bài Thơ Cư Trần Lạc Đạo của Tổ Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam (1258 – 1308)... Tâm Thường Định
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant