Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15337)
Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát trò chơi, trò diễn..., cùng lúc, có những sáng tạo mới về đời sống tinh thần, về công việc lao động ở vùng đất mới này.

Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn, Gọi nghé, Cù cưa cút kít.

Dừng chân ở đất Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt vốn liếng đồng dao và sáng tác, làm giàu có thêm cái kho tàng chơi hát-học-vui của mình.

Đồng dao là thể loại ca hát hồn nhiên, bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Con nít yêu đồng dao như yêu cảnh thiên nhiên của đồng quê, yêu ánh nắng chan hòa làm rực rỡ thêm cảnh sắc thiên nhiên. Đồng dao làm cho tâm hồn các em thêm đẹp, thêm tươi.

Mỗi người chúng ta khi nhớ lại tuổi thơ của mình với bao kỷ niệm êm đẹp, chắc hẳn không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình.Tại sao lại như vậy nhỉ ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ.

Có hai cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì thích hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau :

Tau đi ngõ ni có hương có hoa

Mi đi ngõ nớ có ma đón đường!

Cô bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại :

Tau đi ngõ ni có bụi tùm hum

Mi đi ngõ nớ có hùm chụp mi!

Hai đứa đi hai ngả. Chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là một đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hàng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát những câu ấy.

Các em đứng vòng quanh, chơi - hát Phủi tóc bạn, hát nói :

Đầu đứa mô có rơm có rác

Kêu tau bằng bác, tau phủi đầu cho

Kêu tau bằng o, tau cho cái này.

Vừa vỗ tay vừa nhảy tưng tưng theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, "tau cho cái này", có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát - chơi bài này, một em nào đó đã cố ý kín đáo cho một cộng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quanh bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị.

Mùa hè, ở rừng, nhận ra khu nào lắm ve ve, tối đến, các em rủ nhau đi bắt ve ve, rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hổm quây hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói từng âm.

Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh - âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ. ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn.

Oa oa òa òa

Oa oa òa òa

Hu hu ve ve

Xuống đây mà nghe

Ăn xôi, ăn chè

Ăn mít, ăn me

Không xuống không nghe

Tau đánh mi què

Tau ví chạy re

Oa oa òa òa, oa oa òa òa

Từng đôi em một, ngồi bệt trên đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, hát - chơi :

Cù cưa kút kít

Con nít rúc ra

Ông già rúc vô

Cù cưa kút kít

Con nít may ra

Bà già may vô

Cù cưa kít kít

Ăn ít no lâu

Ăn nhiều tức bụng

Cù cưa kút kít

Con nít nhà ai

Thì về nhà nấy.

Nhưng, chưa ai vội về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra đã té tủm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn :

Xù xì xụt xịt

ốc mít lùi tro

Ăn no té tủm

Ba ông quan chánh

Xúm đánh phèn la

Biểu phải chỉ ra

Đứa mô té tủm ?

Đứa mô té tủm ?

Đồng dao thế giới không có câu hát này.

ở nhà quê, trẻ em yêu thương con nghé. Từ Bắc vào Nam, nhiều câu hát gọi nghé. Con nít Quảng Nam gọi nghé :

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Lạc đàn theo chó

Lạc ngõ theo trâu

Nghe mẹ rống đâu

Đâm đầu mà nhảy

Huê...huê...

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Ham cỏ bỏ bầy

Huê con nghé nhỏ

Ham chơi xa đàn lạc mẹ

Huê...huê...

Có thể nghe thấy ở đồng dao chất liệu hò khoan trộn chút ít vè hơi oán, hô thai và cái chất của lý tươi sáng, hóm hỉnh ở sắc bùa.

Con nít ở nhà quê chơi- hát-học-vui nhiều.

Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ.

Trò chơi-hát này như sau : một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô "dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát.

Đồng dao này có hai khúc : một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.

Khúc I :

Dố dậy, dố dậy

Cây gậy bốn phương

Ra đường mạnh mẽ

Bầy trẻ chăn trâu

Bay lâu thẳng cánh

Nó mạnh như sên

Đi trên mặt nước

Đi trước đón rồng

ông đi có cồng

Bà đi có mõ

Trên trời nghe rõ

Làm gió làm mưa

Làm mùa bát ngoạt

Dố dậy, dố dậy!

Khúc II :

Trời mưa lâm dâm

Cây trâm có trái

Con gái có duyên

Đồng tiền có lỗ

Bánh tổ thì ngon

Bánh hòn thì béo

Cái kéo thợ may

Cái cày làm ruộng

Cái xuồng đắp bờ

Cái lờ thả cá

Cái ná bắn chim

Cây kim may áo

Cái giáo đi săn

Cái khăn bịt đầu.

Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu...". Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ

Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của mình.

Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?

Trả lời : - Tuổi Tí cho chuột.

Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu chút chít

(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).

Các em nói :

- Chút chít chi mày

Tau chặt khúc đầu

Tau thầu khúc giữa

Tau bửa lấy xương

Làm rường làm cột

Tau lột lấy da

Bỏ sông Ngân Hà

Còn chi chút chít !

Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi ?

Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.

Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.

(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).

Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...

Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu "rắn rặn" thì thật lạ và rõ là con nít !

Câu hát đố nói đúng, phát âm đúng, cho dẻo miệng :

- Ông ống nồi lội qua sông

Đóng cáí gông vào mông đít

Tròng trà tròng trành

Trâu trèo trâu trợt

Thậm thà thậm thụt

Trò trụt trò trìa

Trâu tra làm trúc bụi tre

Trách trời trơn trợt, xa trò mấy trăng

Ăn ngày ba bữa

Tắm rửa ba lần

Sạch sẽ toàn thân

mà răng ngứa xót, ngứa xót

-Nhà bà Đỏ có nuôi con gà mái đen nhảy ổ

Bà Đỏ sao không lót ổ cho con gà mái đen bà Đó đẻ.

- Cầm cây rựa quéo trèo lên hòn núi quẹo

đốn cây củi queo

đem vềnấu cám heo.

Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi-hát-học-vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biếnlưu truyền.

Nhưng, ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao "bài hát-trò chơi" của các em đều nhằm mục đích rèn luyệngiáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thật sự trong tương lai.

Chọn ngõ, Phủi tóc bạn, Xù xì xụt xịt thể hiện tình bạn, Hu hu ve ve, Họa bù rầy đùng là trò chơi có ích, ông trùm Dé ơi, Đố tuổi rèn luyện trí thông minh, Cù cưa kút kít, Dố dậy, dố dậy rèn luyện thể lực tính nhanh nhẹn, Tau đố bay ăn, ăn cháo quỵt phê phán chế nhạo cái chướng tai gai mắt; Hò nghé ngơ, Người và trâu ở đợ, Dỗ sáo ăn mồi giáo dục lòng thương yêu con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới trẻ thơ : con sáo, con gà, con mèo...,những gia súc gần gũi: con nghé, con trâu..., lòng bác ái trong con người Việt Nam.

Qua cái dễ thương của đồng dao đất Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi-hát-học-vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thứcphương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo lôgíc của chúng là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài ta có khi theo lôgíc "nhảy cóc" như vậy lại đáp ứng yêu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu "tròng trà tròng trành trâu trèo trâu trụt", đáp ứng yêu cầu "đặt vè bẻ vần" , "bẻ làn nắn điệu" của các em.

Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng mang tải một cơ chế nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát-múa-chơi-học đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc.

Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào một kết cấu phức tạp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm.

Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng với ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập sáng tạo âm nhạc dân tộc đầu tiên. Từ tuổi sơ sinh tới lúc lên ba, lên năm, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới bắt đầu tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng, khái niệm "âm nhạc cho trẻ em" bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát tré em.

Một nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho rằng : "Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có. Có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu và chết. Rồi chúng tái sinh".

Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi-hát-múa-học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt. Cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như NQ TW5 (khóa VIII) đã xác định rõ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2542)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3271)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2333)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2477)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2227)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2592)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3062)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2658)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2577)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2619)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3084)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2530)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2641)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2600)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2397)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3281)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2569)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2961)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant