Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15323)
Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát trò chơi, trò diễn..., cùng lúc, có những sáng tạo mới về đời sống tinh thần, về công việc lao động ở vùng đất mới này.

Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn, Gọi nghé, Cù cưa cút kít.

Dừng chân ở đất Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt vốn liếng đồng dao và sáng tác, làm giàu có thêm cái kho tàng chơi hát-học-vui của mình.

Đồng dao là thể loại ca hát hồn nhiên, bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Con nít yêu đồng dao như yêu cảnh thiên nhiên của đồng quê, yêu ánh nắng chan hòa làm rực rỡ thêm cảnh sắc thiên nhiên. Đồng dao làm cho tâm hồn các em thêm đẹp, thêm tươi.

Mỗi người chúng ta khi nhớ lại tuổi thơ của mình với bao kỷ niệm êm đẹp, chắc hẳn không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình.Tại sao lại như vậy nhỉ ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ.

Có hai cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì thích hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau :

Tau đi ngõ ni có hương có hoa

Mi đi ngõ nớ có ma đón đường!

Cô bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại :

Tau đi ngõ ni có bụi tùm hum

Mi đi ngõ nớ có hùm chụp mi!

Hai đứa đi hai ngả. Chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là một đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hàng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát những câu ấy.

Các em đứng vòng quanh, chơi - hát Phủi tóc bạn, hát nói :

Đầu đứa mô có rơm có rác

Kêu tau bằng bác, tau phủi đầu cho

Kêu tau bằng o, tau cho cái này.

Vừa vỗ tay vừa nhảy tưng tưng theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, "tau cho cái này", có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát - chơi bài này, một em nào đó đã cố ý kín đáo cho một cộng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quanh bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị.

Mùa hè, ở rừng, nhận ra khu nào lắm ve ve, tối đến, các em rủ nhau đi bắt ve ve, rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hổm quây hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói từng âm.

Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh - âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ. ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn.

Oa oa òa òa

Oa oa òa òa

Hu hu ve ve

Xuống đây mà nghe

Ăn xôi, ăn chè

Ăn mít, ăn me

Không xuống không nghe

Tau đánh mi què

Tau ví chạy re

Oa oa òa òa, oa oa òa òa

Từng đôi em một, ngồi bệt trên đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, hát - chơi :

Cù cưa kút kít

Con nít rúc ra

Ông già rúc vô

Cù cưa kút kít

Con nít may ra

Bà già may vô

Cù cưa kít kít

Ăn ít no lâu

Ăn nhiều tức bụng

Cù cưa kút kít

Con nít nhà ai

Thì về nhà nấy.

Nhưng, chưa ai vội về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra đã té tủm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn :

Xù xì xụt xịt

ốc mít lùi tro

Ăn no té tủm

Ba ông quan chánh

Xúm đánh phèn la

Biểu phải chỉ ra

Đứa mô té tủm ?

Đứa mô té tủm ?

Đồng dao thế giới không có câu hát này.

ở nhà quê, trẻ em yêu thương con nghé. Từ Bắc vào Nam, nhiều câu hát gọi nghé. Con nít Quảng Nam gọi nghé :

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Lạc đàn theo chó

Lạc ngõ theo trâu

Nghe mẹ rống đâu

Đâm đầu mà nhảy

Huê...huê...

Huê...huê...

Huê con nghé nhỏ

Ham cỏ bỏ bầy

Huê con nghé nhỏ

Ham chơi xa đàn lạc mẹ

Huê...huê...

Có thể nghe thấy ở đồng dao chất liệu hò khoan trộn chút ít vè hơi oán, hô thai và cái chất của lý tươi sáng, hóm hỉnh ở sắc bùa.

Con nít ở nhà quê chơi- hát-học-vui nhiều.

Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ.

Trò chơi-hát này như sau : một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô "dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát.

Đồng dao này có hai khúc : một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.

Khúc I :

Dố dậy, dố dậy

Cây gậy bốn phương

Ra đường mạnh mẽ

Bầy trẻ chăn trâu

Bay lâu thẳng cánh

Nó mạnh như sên

Đi trên mặt nước

Đi trước đón rồng

ông đi có cồng

Bà đi có mõ

Trên trời nghe rõ

Làm gió làm mưa

Làm mùa bát ngoạt

Dố dậy, dố dậy!

Khúc II :

Trời mưa lâm dâm

Cây trâm có trái

Con gái có duyên

Đồng tiền có lỗ

Bánh tổ thì ngon

Bánh hòn thì béo

Cái kéo thợ may

Cái cày làm ruộng

Cái xuồng đắp bờ

Cái lờ thả cá

Cái ná bắn chim

Cây kim may áo

Cái giáo đi săn

Cái khăn bịt đầu.

Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu...". Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ

Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của mình.

Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?

Trả lời : - Tuổi Tí cho chuột.

Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu chút chít

(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).

Các em nói :

- Chút chít chi mày

Tau chặt khúc đầu

Tau thầu khúc giữa

Tau bửa lấy xương

Làm rường làm cột

Tau lột lấy da

Bỏ sông Ngân Hà

Còn chi chút chít !

Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi ?

Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.

Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.

(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).

Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...

Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu "rắn rặn" thì thật lạ và rõ là con nít !

Câu hát đố nói đúng, phát âm đúng, cho dẻo miệng :

- Ông ống nồi lội qua sông

Đóng cáí gông vào mông đít

Tròng trà tròng trành

Trâu trèo trâu trợt

Thậm thà thậm thụt

Trò trụt trò trìa

Trâu tra làm trúc bụi tre

Trách trời trơn trợt, xa trò mấy trăng

Ăn ngày ba bữa

Tắm rửa ba lần

Sạch sẽ toàn thân

mà răng ngứa xót, ngứa xót

-Nhà bà Đỏ có nuôi con gà mái đen nhảy ổ

Bà Đỏ sao không lót ổ cho con gà mái đen bà Đó đẻ.

- Cầm cây rựa quéo trèo lên hòn núi quẹo

đốn cây củi queo

đem vềnấu cám heo.

Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi-hát-học-vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biếnlưu truyền.

Nhưng, ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao "bài hát-trò chơi" của các em đều nhằm mục đích rèn luyệngiáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thật sự trong tương lai.

Chọn ngõ, Phủi tóc bạn, Xù xì xụt xịt thể hiện tình bạn, Hu hu ve ve, Họa bù rầy đùng là trò chơi có ích, ông trùm Dé ơi, Đố tuổi rèn luyện trí thông minh, Cù cưa kút kít, Dố dậy, dố dậy rèn luyện thể lực tính nhanh nhẹn, Tau đố bay ăn, ăn cháo quỵt phê phán chế nhạo cái chướng tai gai mắt; Hò nghé ngơ, Người và trâu ở đợ, Dỗ sáo ăn mồi giáo dục lòng thương yêu con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới trẻ thơ : con sáo, con gà, con mèo...,những gia súc gần gũi: con nghé, con trâu..., lòng bác ái trong con người Việt Nam.

Qua cái dễ thương của đồng dao đất Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi-hát-học-vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thứcphương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo lôgíc của chúng là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài ta có khi theo lôgíc "nhảy cóc" như vậy lại đáp ứng yêu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu "tròng trà tròng trành trâu trèo trâu trụt", đáp ứng yêu cầu "đặt vè bẻ vần" , "bẻ làn nắn điệu" của các em.

Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng mang tải một cơ chế nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát-múa-chơi-học đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc.

Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào một kết cấu phức tạp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm.

Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng với ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập sáng tạo âm nhạc dân tộc đầu tiên. Từ tuổi sơ sinh tới lúc lên ba, lên năm, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới bắt đầu tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng, khái niệm "âm nhạc cho trẻ em" bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát tré em.

Một nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho rằng : "Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có. Có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu và chết. Rồi chúng tái sinh".

Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi-hát-múa-học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt. Cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như NQ TW5 (khóa VIII) đã xác định rõ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 30)
Bất cứ chuyến đi nào cũng giữ lại trong tôi nhiều kỷ niệm.
(Xem: 98)
Bệnh tật và thống khổ không thể tách rời nhau, cho nên gọi là “Bệnh thống” [病痛], “Bệnh khổ” [病苦], “Tật khổ” [疾苦].
(Xem: 194)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 347)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 297)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 272)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 263)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 350)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 385)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 559)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 383)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 382)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 472)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 412)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 405)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 375)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 412)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 512)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 346)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 299)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 347)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 358)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 446)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 515)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 511)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 524)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 520)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 508)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 796)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 743)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 1024)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 606)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 823)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 650)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 655)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 525)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 638)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 603)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 794)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 566)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 971)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 719)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 709)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1168)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 807)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 686)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1074)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 650)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 772)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 763)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant