Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô thườnglẽ sống

24 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15229)
Vô thường là lẽ sống


VÔ THƯỜNGLẼ SỐNG

AKONG TULKU RINPOCHE

Thiện Tri Thức dịch


---o0o---

Akong Tulku RinpocheVô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu. Khi hết hạnh phúc, người ta bất hạnh; và người ta cũng trở nên hạnh phúc khi hết bất hạnh. Đi từ trạng thái này qua trạng thái kia xảy ra tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến, chấp nhận chúng như vậy, dù cho những xúc tình chúng khơi dậy nơi chúng ta. Mỗi khoảnh khắc của đời sốngđộc nhất vô nhị và không bao giờ trở lại...

Tỉnh thức về vô thường, về sự mong manh nội tại của mọi vật, là một giai đoạn cần thiết của sự phát triển của chúng ta. Nếu người ta lơ là với sự thật này, người ta sẽ chỉ làm chậm sự tiến hóa cá nhân của mình, dù cho người ta có biết tiềm năng của trí tuệ đang mang trong bản thân. Thế nên trước tiên phải tìm hiểu vô thường này là gì, để học đối mặt với sự tạo hợp không thể tránh được của đời sốngtiếp theo áp dụng một cách có ích sự hiểu biết này vào cuộc sống hàng ngày.

Vô thường là một hiện tượng phổ quát tác động lên mọi mặt của hiện hữu. Người ta có thể chẳng hạn xem xét những hậu quả của nó trong môi trường vật chất của chúng ta tất cả những cái là đối tượng của tri giác chúng ta. Mỗi năm mỗi mùa liên tục nối tiếp nhau, mỗi mùa có những thay đổi đặc trưng: sự chuyển đổi của nhiệt độ, dài ngắn của ngày đêm, phong cảnh thiên nhiên. Những thay đổi ấy không thể tránh, dù có thích mùa Hè, cái lạnh mùa Đông cũng tới. Không ích gì mơ mộng cái không thể. Tốt hơn là thử nếm hương vị và vẻ kiều diễm của mỗi mùa. Và chu kỳ cứ thế lại bắt đầu. Vô thường hoạt động khắp nơi, vì tất cả thay đổi không ngừng nghỉ một khoảnh khắc. Đối với người biết nhận ra nó, thậm chí có một vẻ đẹp vĩ đại trong sự biến chuyển thường hằng này.

Sự chuyển biến cũng cảm thấy trong cuộc đời chúng ta. Giàu hôm nay có thể chuyển sang nghèo ngày mai và ngược lại. Người ta mất việc làm, rồi kiếm lại chỗ khác, chủ rồi thợ, thợ rồi chủ. Không có cái gì là bất động.

Đời sống bên trong và những tình cảm của chúng ta cũng không thoát khỏi những cơ chế của vô thường. Tính khí chúng ta thay đổi không ngừng từ sáng đến tối; có những sự việc người ta thích thú nhiều, những cái khác người ta e ngại, những cái khác người ta thản nhiên. Nhưng cách gì đi nữa, trạng thái tâm thức chúng ta bập bềnh xao động với điều xảy ra quanh chúng ta. Chẳng hạn chỉ cần gặp một người bạn xa cách nhiều năm, thế là có niềm vui. Rồi phút tiếp theo, thấy một người mình ghét đi đến, điều đó đủ làm chúng ta đảo ngược hẳn lại. Để biết tâm thức chúng ta hiện giờ giống cái gì, chúng ta hãy tưởng tượng một con khỉ bị nhốt trong một căn nhà trống, nó không ngừng nhảy nhót mọi phía và chạy đến hết cửa sổ này đến cửa sổ nọ để xem cái gì xảy ra ngoài kia. Như con khỉ, những xúc tình của chúng ta không ngừng cử động, không ngừng ném chúng ta từ những đỉnh cao xuống những vực sâu và ngược lại.

Không có gì thường hằng. Người ta sinh ra, lớn lên, đến trường, làm việc, già đi và sớm hay muộn cũng chấm dứt bằng cái chết. Vài ba vòng nhỏ rồi đi mất. Cuộc đời trốn thoát từng khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác mà người ta chẳng làm gì được. Và khi cái chết đến: phải từ bỏ tất cả: gia đình, bè bạn, tài sản, những sự vật người ta giữ. Một số người kinh hoàng, hay tuyệt vọng khi chỉ nghĩ đến nó, và thế nên văn hóa phương Tây cố công giãy giụa để thoát hiểm khỏi câu hỏi căn bản này, lấy cớ rằng nói đến nó là một việc bệnh hoạn. Đó hầu như là một điều húy kỵ, đến nỗi cả danh từ cái chết thường được ngụy trang: người ta thích nói người ấy đã từ bỏ chúng ta hơn là nó đã chết . Một phản ứng tự vệ vừa tức cười vừa vô ích, bởi vì nó tuyệt đối chẳng thay đổi được gì trước vô thường. Tốt hơn là nhìn những sự việc ngay thẳng mặt: tiến trình biến dịch là không tránh khỏi, chúng ta hãy lợi dụng nó để rút ra cái tốt nhất có thể từ những năm còn lại, không làm con đà điểu vùi đầu vào cát và sống như người ta có cả vĩnh cửu trước mặt mình. Ai lại không cảm thấy sự mãnh liệt mà người ta đang sống từng khoảnh khắc vào giờ phút chia tay hay một cuộc ra đi gấp rút: lúc đó người ta ý thức mạnh mẽ thời gian được tính như thế nào, và thường vào lúc đó người ta nói với nhau hay làm những điều mà một cách vô thức hay không, người ta luôn luôn muốn kéo dài. Đó là giờ của sự thật sự biểu lộđúng lúc; chỉ còn ít thời gian để cuối cùng người ta đến cái chính yếu, đến cái tuyệt đối không thể cho qua trước khi rời xa. Không làm cho tình thế nặng nề hay khó nhọc, tình cảm khẩn cấp này, nó thật ra chỉ là một ý thức tức thời và sắc bén về vô thường, đã cho một cường độ, một sự thật và một sự giàu có bất ngờ vào tình huống. Sự cảm nhận tính vô thường, tính cách độc nhất của khoảnh khắc người ta đang sống, làm mạnh thêm tri giác về cái gì đang trôi quachuyển biến những sự vật tầm thường nhất. Đó cũng như luôn luôn là lần đầu tiên, đồng thời là lần cuối cùng. Hãy tưởng tượng rằng bạn biết rằng tất cả những cây cối trên trái đất sẽ chết hết trong một tháng hay vài tuần. Ngay khi nghe tin này, bạn sẽ nhìn những cái cây với một con mắt mới; thình lình cái bóng màu lục mơ hồ này mà thói quen khiến bạn thu vào một cách tự động hầu như vô thức sẽ tự nó rõ nét một cách phi thường. Bạn sẽ thấy cây dầu ở góc đường, hay cây ổi trong vườn bạn như bạn chưa từng bao giờ thấy nó: bạn sẽ tri giác sự hòa điệu tổng thể của nó, hình dáng những chiếc lá, cách dệt của vỏ, kiến trúc của thân và những cành, tiếng xào xạc của lá, sự hiện diện nhẹ nhàng, bóng mát, những con chim nhỏ trú ngụ ở đó. Không gây sợ hãi, ý thức về sự phù du, sự mong manh của sự vật và con người làm cho bạn cảm kích hơn và gợi ra sự kính trọng, tình thương, lòng bi mẫn. Biết bao đôi cặp thường tranh cãi nhau không thể khuây nguôi khi cái chết hay sự rời xa của một người khiến họ cảm thấu được chiều sâu của một tình cảm mà họ đã thường lơ là không trau giồi, bởi vì họ đã sống như thể họ có cả vĩnh cửu trước mặt. Khi người ta chết, tất cả mọi người đồng thuận chỉ thấy những phẩm chất của người ấy, dù họ không ngừng bị chỉ trích khi còn sống. Tán dương họ và thương yêu họ khi họ còn đó không tốt hơn là cái tên sau khi chết sao? Hiểu vô thường có thể giúp chúng ta việc đó. Không chán nản và làm mình bệnh hoạn, trái lại nó gây cảm hứng cho chúng ta sống trọn vẹn hơn và giúp đỡ tất cả những bạn đồng hành mong manh này trên trái đất làm được như vậy.

Thời đại chúng ta khao khát sự rỗi rảnh, thường xem đó là cơ hội tốt nhất để thỏa mãn sự tham muốn. Trong khi người ta tràn ứ sự rỗi rảnh ít nhiều thỏa mãn người ta để con người bên trong mình chết đói. Người ta thích thú với tất cả, ngoại trừ có một sự làm chủ nào đối với tâm thức của họ, cái sức mạnh man dã này bao giờ mà sức mạnh đó chưa tự biết chính nó tuy nhiên chính nó là động cơ của mọi kinh nghiệm của chúng ta. Và nếu người ta có nghĩ đến, người ta hoãn nó đến vô hạn định. Rõ ràng tất cả chúng ta đều cần thư giãn và vui chơi một ít, nhưng điều đó không phải là người ta phải lưu tâm đến mọi cái phóng dật. Ý thức vô thường có thể cho đời sống vị muối; người ta sẽ muốn lợi dụng tối đa thời gian của mình và dùng nó theo cách tốt nhất, thay vì để nó trôi qua một cách ngu xuẩn, không biết đến giá trị của nó.

Ý nghĩa thật sự của vô thường luôn luôn bị hiểu sai. Một số người thử giải thích nó có hơi hư vô chủ nghĩa: vì mọi sự thế nào cũng qua đi, thì không có gì quan trọng cả. Ích gì mà làm việc và theo một nghề nghiệp; không tốt hơnbuông bỏ hết cả sao? Đó là một thí dụ hoàn hảo của việc bẻ quặt một chân lý căn bản để biến nó thành một cớ cho sự biếng nhác, để tránh phải đương đầu với những thực tế của đời sống. Nếu người ta phải đi giặt và người ta tự nhủ: Hơi đâu, biết đâu ngày mai tôi chết, người ta chắc chắn sẽ tiến bộ nhiều trên con đường lười biếng, mà chẳng bao nhiêu trên con đường trí tuệ. Ý thức về vô thường không có nghĩa là bỏ công việc làm hay việc học hành của mình; chỉ đơn giảnnhận thấy những sự kiện, biết rằng tất cả là sự biến dịch mãi mãi.

Nghe nói đến vô thường không phải là một lý do để sợ hãi hay có những phản ứng thái quá; sự hiểu biết này trái lại phải được dùng để làm cho cuộc đời chúng tagiá trị. Người ta có thể quan sát rõ ràng tình trạng biến dịch thường hằng của đời sống, mà vẫn tiếp tục thương yêu đời sống và hân thưởng nó.

Vô thường không phải luôn luôn là một tin tức xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu. Khi hết hạnh phúc, người ta bất hạnh; và người ta cũng trở nên hạnh phúc khi hết bất hạnh. Đi từ trạng thái này qua trạng thái kia xảy ra tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến, chấp nhận chúng như vậy, dù cho những xúc tình chúng khơi dậy nơi chúng ta. Mỗi khoảnh khắc của đời sốngđộc nhất vô nhị và không bao giờ trở lại nữa, và người ta có thể làm giàu lớn lao kinh nghiệm sống của mình bằng cách không lẩn trốn bất cứ phần nhỏ nào của kinh nghiệm. Một số thì khó nhọc, số khác dễ chịu, nhưng mỗi cái có kết cấu và màu sắc riêng của nó, và người ta sẽ được nihều khi không lẩn tránh chúng.

Đã rõ bản chất vô thường của tất cả mọi hiện tượng, trong và ngoài chúng ta, người ta thôi gán cho chúng một hiện hữu vững chắc. Người ta càng làm cho ý tưởng mà người ta tự tạo trên những sự vật vững chắc bao nhiêu, người ta càng khổ đau bấy nhiêu khi chúng thay đổi, vì chúng tất yếu phải thay đổi. Nếu người ta có những ý tưởng chấp cứng, người ta sẽ có khuynh hướng có những tham muốn và ghét bỏ rõ ràng và mạnh mẽ và chọn lựa những kinh nghiệm của mình theo những ý tưởng thành kiến, nắm lấy cái làm mình ưa thích và chối bỏ cái còn lại. Nhất là người ta sẽ từ chối rằng những sự vật biến đổi và người ta cố chống lại điều đó. Hoàn toàn thất bại, rõ ràng thôi. Nhưng khi người ta bị nhốt kín trong một thái độ ngưng đọng như vậy, chính những phiền não sẽ dẫn dắt người ta: cứ không ngừng đi từ cực này sang một cực khác, và người ta tự làm cho mình bất ổn và mất sự quân bình bên trong. Từ đó là sự quan trọng của việc học bớt bám víu vào những sự vật, những con người và điều người ta làm bằng cách chấp nhận sự thật của vô thường. Bao giờ nó cũng hiện hữu, dù người ta muốn hay không, thì tốt hơn là bơi theo dòng chảy: người ta sẽ có lợi từ sức mạnh đẩy tới của nước, thay vì vật lộn với nó.

Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng nghĩ rằng người ta nên kiếm lợi từ cuộc đời và từ những tham muốn của mình, và rồi người ta sẽ có nhiều thời gian để suy nghĩ sau này. Thời gian trôi đi, tâm thức chúng ta không chế ngự được tiếp tục xỏ mũi dắt chúng ta đi và người ta lại hỏi tại sao người ta khổ. Trong thời đó, mặt trái nợ nần đi theo và không có gì bảo đảm cho chúng ta rằng ngày mai sẽ tốt đẹp khi người ta trì hoãn tất cả cái gì làm cho người ta phiền muộn. Dù sao đó là một tính toán tệ hại: người ta không lập tức lo toan cho tâm thức mình, lấy cớ rằng người ta muốn không bỏ qua thời vận tốt và lợi dụng cuộc đời. Vậy mà chính tình trạng hoang dã của tâm thức chúng ta ngăn cản chúng ta thực sự lợi dụng được đời sống và nó làm chúng ta phí phạm đời sống vì những trò điên cuồng không kiểm soát được của nó và những thiệt hại mà các trò đó gây ra. Chẳng phải là do sự tính toán kiểu khoái lạc chủ nghĩa này, người ta thích học thuần dưỡng con cọp của mình càng nhanh càng tốt sao? Chúng ta hãy biết nắm lấy ân sủng khi nó đến: điều này không có nghĩa là người ta luôn luôn có cơ hội hay khả năng từ đó.

Một tri giác lành mạnh về vô thường có lẽ là món quà tốt nhất mà người ta có thể làm cho chính mình: trong ngắn hạn để đánh giá tốt hơn những mặt tốt đẹp của hoàn cảnh hiện thời của mình, không quá bám níu, và để xem những mặt xấu với nhiều triết lý hơn, thậm chí những sự việc xấu nhất cũng có một cứu cánh. Về dài hạn, để không chậm trễ với cái không thiết yếu và đi trực tiếp đến cội nguồn của những sự vật bằng cách thuần hóa con cọp bên trong của mình. Như thế người ta thường có được nhiều khi đối mặt với một số sự thật thanh tẩy cho mình...

(Theo chương III của L art de dresser le tigre intérieur)

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2670)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2439)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2712)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3001)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2594)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4100)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3311)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2390)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2746)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2907)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2717)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant