Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày của mẹ tha hương nhớ mẹ quê nhà

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13236)
Ngày của mẹ tha hương nhớ mẹ quê nhà

 

Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao vô tận nhưng mong gì vắt được thành một giọt nước mắt khóc Mẹ ngày xưa.

Ngày của Mẹ lần thứ 28 ở quê người, thằng con trai út của Mạ bỗng nhớ ngày qua.

Nhớ những ngày khói lửa trên quê hương và tiếng hát học trò Nguyễn Hoàng Quảng Trị đồng vọng ước mơ:

Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quắc,

Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình,

Mẹ mừng nhòa đôi mắt long lanh,

Nghe tin con vẫn còn ngày xanh.

Và nữa…

Tiếng ca của một thời bão nổi:

Mẹ Việt Nam ơi, Mẹ Việt Nam ơi!

Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ,

Chúng con xin nguyền khắc sâu ơn Mẹ,

Một đời chìm sâu vào trong thế giới.

Chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi,

Ơi, Mẹ Việt Nam ơi!

Còn non một tuần lễ gần dịp kỷ niệm Ngày Của Mẹ năm nay (Mother’s Day: 9-5-2010), tổ chức Nuôi Dưỡng Trẻ Con – Save the Children – quốc tế, quy tụ 160 nước trên toàn cầu để đánh giá vai trò của người mẹ đã tạo ra sự an lànhhạnh phúc cho con cái như thế nào. Người mẹ Hoa Kỳ đứng vào hàng thứ 28. Những bà mẹ Na Uy và Úc đứng hàng đầu; Afghanistan và các nước Congo, Sudan, Niger đứng vào hạng chót.

“Ở nhà nhất mẹ nhì con…”. Những bà mẹ Việt Nam một đời kham nhẫn nuôi con và dường như bị chìm sâu giữa lòng thế giới. Nhưng đến khi tiếp cận hay sống chung với nhiều dân tộc khác nhau giữa ngã tư toàn cầu như Mỹ thì “mình mới thấy được mình” và Mẹ Việt Nam bỗng đứng trên cao vời chót vót của bất cứ danh sách nào nhân thế.

Ba mươi lăm năm lịch sử người Việt sống ở nước ngoài đã thực sự tô đậm hình ảnh người Mẹ Việt Nam nơi xứ người. Gà trống bố nơi quê người thường gáy to hơn; nhưng gà mái mẹ vẫn ẩn nhẫn làm công việc “một con bươi, chín mười con lượm” gieo neo nuôi cho đàn con khôn lớn.

Nói rằng, xã hội phương Tây mà điển hình xứ Mỹ, là đất dụng võ cho tài năngđức hạnh của người phụ nữ phương Đông, không phải là điều quá đáng đối với người Việt sống ở nước ngoài. Người Việt định cư ở xứ nầy trong vòng vài ba chục năm thường vẽ ra những bức tranh so sánh thú vị trong những buổi họp mặt gia đình. Buổi đầu xa xứ, những ông Trần, bà Nguyễn; con Bé, thằng Cu… lang thang, lếch thếch bước xuống những phi trường đồ sộ xứ người với cái túi ni-lông ICM đựng giấy tờ tùy thân, với hai bàn tay trắng và một chữ tiếng Mỹ, tiếng Anh bẻ đôi chưa có. Thế mà vài ba chục năm sau, cha mẹ đã xây dựng được một sự nghiệp vững chắc cho gia đình và con cái trở nên những nhà chuyên môn thành đạt trên đất Mỹ. Đất có màu mỡ, giống và phân có tốt lành đến mức nào đi nữa, vẫn cần đến bàn tay chăm bón thì cây đời mới trổ cành, xanh lá tốt tươi. Bàn tay Mẹ.

Tuy không ai phủ nhận được rằng, công cha như Núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong Nguồn; nhưng người Mẹ Việt Nam trên vùng đất mới, thường đóng vai trò then chốt cho sự thành bại của con cái trong mỗi gia đình

Vai trò người đàn ông làm đầu tàu kinh tế của truyền thống gia đình Việt Nam khi ra tới nước ngoài bỗng chững lại. Thế mạnh của người cha trong gia đình chuyển sang người mẹ vì xã hội kỹ nghệ phương Tây không sẵn sàng đón nhận tay nghề, khả năng hội nhập và sức mạnh gánh vác của người đàn ông phương Đông vừa mới đến. Trong lúc đó, sự mềm dẽo, tính chắt chiu và tinh thần chịu thương chịu khó của người mẹ Việt Nam là vốn quý để tranh sống bước đầu trên vùng đất mới. Với đôi bàn tay khéo léo và lòng kham nhẫn, một người phụ nữ Việt Nam có thể chỉ cần 3 tháng học và thực hành nghề Nails (làm móng tay) thì cũng tạm nuôi sống gia đình; tương đương với mức thu nhập trung bình của một người đàn ông phải đầu tư đi học kiếm tay nghề ít lắm cũng mất vài ba năm. Chín mươi phần trăm các tiệm làm Nails ở khắp nhiều thành phố lớn tại Hoa Kỳ là do phụ nữ người Việt làm chủ. Nhưng hầu hết đó là những bà mẹ thuộc về thế hệ di dân thứ nhất. Thế hệ thứ hai và càng về sau chủ yếu đầu tư vào giáo dục lâu dài hơn là tìm học nghề ngắn hạn để kiếm tiền cấp thời. Rất nhiều gia đình người Việt đông con, có con cái tốt nghiệp đại học và hậu đại học chủ yếu do bàn tay của người mẹ.

Huyền thoại nòi giống Nhật Bản, Trung Hoa, Đại Hàn, Ấn Độ… thông minhưu việt hơn dân tộc Việt Nam chỉ còn là dấu vết ngộ nhận đã thành quá khứ trong các hệ thống trường học phương Tây và Hoa Kỳ. Tuổi trẻ Việt Nam ở nước ngoài đã làm vẻ vang nòi giống mình bằng những thành tựu học vấn cụ thể ngang tầm với những sắc dân có truyền thống học vấn xuất sắc cả Á lẫn Âu.

Nếu nhìn vào thành quả của đàn con để vinh danh người mẹ thì sẽ có rất ít “lão nam nhi” người Việt dám hiên ngang tranh thắng với quý bà nội, bà ngoại của bé Xí, cu Tèo! Có người đã khen cái sức mạnh đa năng tranh sống ấy là khả năng quyền biến của những bà mẹ Việt Nam: “Osin cũng được, y dược cũng hay, móng tay cũng khéo.”

Có dịp tìm hiểuso sánh với những người mẹ “Đông Dương” của các sắc dân khác – cũng đến Mỹ đồng thời và có cùng cảnh ngộ sau cuộc chiến Việt Nam như người Lào, người Cam Bốt, người H’mong, người Miên – mới thấy được sự tuyệt vời của lòng mẹ Việt Nam nơi xứ người. Đó là tấm lòng hy sinh “lấy ngắn đánh dài”. Người mẹ không quản thân mình để làm bất cứ việc gì, nghề gì lương thiện trong xã hội mới để có điều kiện vật chất lo cho đàn con ăn học. Khi từng đứa rạng rỡ được soi mặt mình trong tấm gương phản chiếu tài năng của cộng đồng thế giới, cũng là lúc được nghe tiếng mẹ cười.

Trong lòng mỗi người mẹ Việt Nam xa xứ đều có ít nhất là một rẻo đất quê nhà mang theo. Rẻo đất là một dải đất nhỏ bé, vô danh, không ai đo bằng thước bằng gang. Trên quê xưa, xen lấn giữa những nền nhà, khu vườn, thửa ruộng, thường có những rẻo đất dư gần như quên lãng. Những bà mẹ quê vẫn thường tận dụng hết những rẻo đất đó để trồng rau. Dăm tép hành, vài bụi sả, mấy cọng rau thơm, vài ba gốc đậu, ít đọt môn khoai… là cả một thế giới ươm ủ âm thầm nhưng thường mang lại hạnh phúc cho người thân yêu. Đó là những bữa cơm đạm bạc mà đầy hương vị cho cả gia đình với cảnh chồng chan vợ húp, con cái hít hà.

Những rẻo đất quê nhà ấy vẫn được mang theo trong tráp hành lý tinh thần của người Việt sống ở nước ngoài. Rẻo đất như một biểu tượng của mối quan hệ giữa phương tiệnhạnh phúc: Phương tiện rất eo hẹp như rẻo đất bỏ quên nhưng vẫn có thể tạo ra nguồn hạnh phúc nồng ấm cho gia đình qua bàn tay chịu thương, chịu khó của Mẹ. Rẻo đất trong suy tư sẽ giữ lại một chút bản sắc của đất lề quê thói trước cảnh lạ nước, lạ người thường đổi thay và quay nhanh như chong chóng. Rẻo đất quê nhà mang theo không phải là tài sản vật chất mà đó là truyền thống Lòng Mẹ Việt Nam. Rẻo đất giữa đời thường sẽ giúp trồng lại những rẻo vườn rau nơi căn nhà mới. Hầu hết nhà ở tại Mỹ lớn nhỏ tùy nơi, nhưng đều có vườn trước, vườn sau. Nhưng giá trị hiện tiền của nó không phải là vật chất mà là tinh thần. Bởi vậy, bên cạnh những vườn cỏ, vườn hoa, cây cảnh trang trí, phần đông người Việt mà đặc biệt là những bà mẹ có nhà riêng đều trồng những rẻo vườn rau bên hông nhà; mùa nào thức ấy. Vô hình chung, vườn rau của ngày xưa quê mẹ, trở thành một hình ảnh văn hóa tha hương góp phần tô thêm một nét trong bản sắc của người Việt đang sống ở nước ngoài.

Vẻ đẹp chân thật thường không cũ với thời gian. Lòng mẹ Việt Nam là nét đẹp điển hình và chân phương trong văn hóa Việt. Muốn cho những thế hệ kế thừa sẽ tiếp tay lưu giữ và thắp sáng hoài những nét đẹp Việt Nam trong khung cảnh quê người, mong những đức lang quân và những đứa con ngoan, những đàn cháu giỏi nơi quê người sẽ chung tay làm những điều thật đẹp để mừng Ngày Của Mẹ là ngày ngọt ngào đầy thương yêuhạnh phúc.

Ngày của Mẹ, xin tặng một đóa hoa hồng cho những ai còn Mẹ. Và xin tặng một biển hoa hồng cho những ai mất mẹ vì biển hoa hồng ấy như lá rừng lao xao vô tận nhưng mong gì vắt được thành một giọt nước mắt khóc Mẹ ngày xưa.

Trần Kiêm Đoàn

Sacramento, tháng Năm 2010
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2221)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2657)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2350)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2666)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2436)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2543)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2194)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2649)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2989)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2555)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4089)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2289)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2869)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2633)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2385)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2687)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2744)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2130)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2598)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant